Việc xem xét giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội hiếp dâm đang là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và nhận được sự quan tâm của nhiều người. Vậy người phạm tội hiếp dâm có được giảm nhẹ hình phạt không?
Mục lục bài viết
1. Tội hiếp dâm được quy định như thế nào trong Bộ luật Hình sự hiện hành?
1.1. Tội hiếp dâm là gì?
Tội hiếp dâm được quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 theo đó, hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân mà không có sự đồng ý của họ
Theo đó, các đặc điểm cấu thành tội phạm hiếp dâm được xác định như sau:
– Mặt khách quan:
+ Về hành vi: Có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không có sự đồng ý của họ.
Người phạm tội phải có hành vi giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác để xác định tội hiếp dâm.
Theo định nghĩa tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 01/10/2019 về hướng dẫn vụ án xâm hại tình dục trẻ em và hướng dẫn áp dụng quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự thì:
– Giao cấu là hành vi, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện mà không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
– Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính, bao gồm đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào hậu môn, miệng của người khác; dùng ngón chân, lưỡi, ngón tay… dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
– Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng nạn nhân bị ngất, bị khuyết tật, bị tai nạn, bị trói… dẫn đến việc nạn nhân không thể chống cự được khi người phạm tội thực hiện hành vi; nạn nhân bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc kích thích, thuốc gây mê, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác… dẫn đến mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi hoặc hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
– Thủ đoạn khác bao gồm các thủ đoạn như cho nạn nhân uống rượu, bia, uống thuốc gây mê, thuốc ngủ hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành hoặc hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; đầu độc nạn nhân; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học… để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
– Mặt chủ quan: Người phạm tội hiếp dâm thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp.
– Chủ thể: Chủ thể của tội hiếp dâm là bất kỳ người nào có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên.
– Khách thể: Tội hiếp dâm là tội xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của con người.
1.2. Khung hình phạt của tội hiếp dâm:
Khung hình phạt của tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không có sự đồng ý của nạn nhân.
Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
-
Nhiều người hiếp một người;
-
Có tổ chức;
-
Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
-
Có tính chất loạn luân;
-
Phạm tội 02 lần trở lên;
-
Làm nạn nhân có thai;
-
Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
-
Đối với 02 người trở lên;
-
Tái phạm nguy hiểm.
Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với những người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,:
-
Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
-
Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
-
Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
-
Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Như vậy, đối với tội hiếp dâm thì mức phạt tù cao nhất có thể lên tới 20 năm hoặc chung thân.
Lưu ý: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tội hiếp dâm:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được quy định tại Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 bao gồm:
-
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
-
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
-
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
-
Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
-
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
-
Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
-
Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
-
Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
-
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
-
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
-
Người phạm tội là phụ nữ có thai;
-
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
-
Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
-
Phạm tội do lạc hậu;
-
Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
-
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
-
Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
-
Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
-
Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ;
-
Người phạm tội tự thú;
-
Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
-
Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
-
Và trong từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Tuy nhiên, các tình tiết giảm nhẹ theo quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
3. Người phạm tội hiếp dâm tự thú thì có được giảm nhẹ hình phạt không?
Một trong những nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội được quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 3, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
-
Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, có tổ chức, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
-
Khoan hồng đối với thành khẩn khai báo, người tự thú, đầu thú, lập công chuộc tội, tố giác đồng phạm, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, ăn năn hối cải hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Thêm vào đó, theo quy định tại điểm r, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội tự thú là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Như vậy, trường hợp người có hành vi phạm tội hiếp dâm tự thú được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đây sẽ là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định hình phạt cụ thể đối với người phạm tội hiếp dâm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017;
– Nghị quyết 06/2019/NĐ-HĐTP hướng dẫn xét xử vụ án xâm hại tình dục trẻ em.