Hiện nay, nhiều cặp cha mẹ có quyết định nhận nuôi con rất phổ biến tại nước ta. Việc nhận nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Vậy, có phải bất kỳ ai cũng đều được quyền nuôi con? Người nhiễm HIV có được nhận con nuôi hay không? Cùng tìm hiểu nhé
Mục lục bài viết
1. Người nhiễm HIV có được nhận con nuôi hay không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình như sau:
– Cá nhân có quyền được kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền được xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên thì cá nhân có quyền nuôi con nuôi nhưng phải phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.
Ngoài ra, căn cứ Theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây thì một người mới được nhận con nuôi:
– Người nhận nuôi con phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Phải có tư cách đạo đức tốt.
– Phải được xác định đã hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
– Có điều kiện về kinh tế, sức khỏe, chỗ ở để bảo đảm cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi
Tuy nhiên, nếu trường hợp là mẹ kế nhận con riêng của chồng, cha dượng nhận con riêng của vợ, hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì sẽ không cần phải áp dụng quy định đối với con nuôi từ 20 tuổi trở lên và có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở.
Cũng dựa theo quy định tại Điều 14 này, có 04 đối tượng xác định không được nhận con nuôi gồm:
– Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
– Người đang bị phạt tù;
– Người chưa được cơ quan có thẩm quyền xóa án tích về một trong các tội: Ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; Mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; Cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác.
Như vậy, theo phân tích ở trên thì người bị nhiễm HIV vẫn hoàn toàn có thể được quyền nhận con nuôi nếu không thuộc trường hợp bị cấm nhận con nuôi và đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã nêu tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi.
Như vậy, pháp luật không có quy định cấm người nhiễm HIV nhận con nuôi. Tuy nhiên trong điều kiện đối với người nhận nuôi con có điều khoản quy định về sức khỏe, tức là người nhận nuôi con phải có đủ điều kiện về sức khỏe để chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con nuôi.
2. Trẻ em nhiễm HIV có thuộc đối tượng được nhận làm con nuôi hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 24
– Trẻ em được chăm sóc thay thế khi trường hợp xét thấy không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
– Trẻ em được người khác nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.
– Đối với trường hợp khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em thì trẻ em sẽ có quyền được nhận làm con nuôi để được chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về người được nhận làm con nuôi như sau:
– Trẻ em được xác định dưới 16 tuổi
– Người được xác định từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Người được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
+ Người được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
– Một người sẽ chỉ được làm con nuôi của một người đang độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
– Nhà nước khuyến khích đối với việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Theo quy định trên, thì trẻ em dưới 16 tuổi thuộc đối tượng người được nhận làm con nuôi. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi thuộc một trong hai trường nêu trên thì cũng được nhận làm con nuôi.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên thì trẻ em nhiễm HIV vẫn được nhận làm con nuôi, được giáo dục và nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất. Không ai được quyền kì thị, phân biệt đối xử với trẻ em nhiễm HIV.
3. Hồ sơ đối với người nhận nuôi con được pháp luật quy định như thế nào?
Đối với người nhận nuôi con nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 17 Luật Nuôi con nuôi 2010 gồm:
Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có:
– Đơn xin nhận con nuôi ;
– Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;
– Phiếu lý lịch tư pháp của người nhận nuôi con;
– Văn bản để xác nhận về tình trạng hôn nhân;
– Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận tình trạng chỗ ở, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này.
Đối với những người được giới thiệu là con nuôi căn cứ theo quy định tại Điều 18 Luật Nuôi con nuôi 2010 hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước trong đó bao gồm:
– Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước gồm có:
+ Giấy khai sinh;
+ Giấy khám sức khỏe được cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp;
+ Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng, chụp nét và chụp không quá 06 tháng;
+ Biên bản được xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;
+ Quyết định việc tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.
– Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ có trách nhiệm lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
Bước 2: Nộp hồ sơ theo quy định Điều 19 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau:
Người nhận con nuôi sẽ phải có trách nhiệm nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi đang thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.
Thời hạn tiến hành giải quyết việc nuôi con nuôi được xác định là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Bước 3: Kiểm tra và lấy ý kiến những người có liên quan
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ sẽ là cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trong thời hạn được xác định là 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, tiến hành xong việc lập ý kiến của những người được quy định tại Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.
Bước 4: Đăng ký nuôi con nuôi
– Trường hợp khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đầy đủ các điều kiện theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì lúc này Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ tiến hành tổ chức đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn được xác định là 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người quy định tại Điều 21 của Luật Nuôi con nuôi 2010.
Đối với trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng ký thì sẽ phải trả lời bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn được xác định là 10 ngày.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015;
– Luật Nuôi con nuôi 2010.
THAM KHẢO THÊM: