Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước dành cho người bị kết án, cho phép họ được miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm thời gian chịu án. Vậy người được đặc xá có đương nhiên được xoá án tích hay không?
Mục lục bài viết
1. Có đương nhiên được xóa án tích cho người được đặc xá không?
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật Đặc xá năm 2018, đặc xá được hiểu là một hình thức khoan hồng đặc biệt mà Nhà nước thực hiện nhằm tạo điều kiện cho những người bị kết án có cơ hội trở về với xã hội sớm hơn. Cụ thể:
-
Quyền quyết định việc tha tù trước thời hạn cho các cá nhân bị kết án phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân thuộc về Chủ tịch nước, và điều này thường được thực hiện trong những dịp đặc biệt như các sự kiện trọng đại của đất nước hoặc vào những ngày lễ lớn. Đây là một chính sách nhân đạo, thể hiện sự khoan dung và tinh thần cải cách của Nhà nước đối với những người phạm tội có khả năng tái hòa nhập cộng đồng.
Song song với quy định về đặc xá, Điều 70 Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017, hợp nhất Bộ luật Hình sự quy định về việc đương nhiên xóa án tích.
- Quy định này áp dụng cho những người đã bị kết án không thuộc về các tội phạm quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự, khi họ đã hoàn thành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc đã hết thời hiệu thi hành bản án. Để được đương nhiên xóa án tích, những người này còn phải đáp ứng các điều kiện khác được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 của điều này.
-
Cụ thể hơn, người bị kết án sẽ được đương nhiên xóa án tích nếu kể từ thời điểm hoàn thành hình phạt chính hoặc kết thúc thời gian thử thách án treo, họ không có hành vi phạm tội mới trong khoảng thời gian quy định. Thời gian này được chia thành các khoảng khác nhau, tùy thuộc vào loại hình phạt mà họ đã nhận cụ thể như sau: 01 năm đối với án cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc án treo; 02 năm cho án phạt tù dưới 05 năm; 03 năm cho án phạt tù từ 05 đến 15 năm; và 05 năm cho án phạt tù trên 15 năm, bao gồm cả tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
-
Trong trường hợp người bị kết án đang phải chấp hành các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, hay những hạn chế khác mà thời gian thực hiện kéo dài hơn các thời hạn đã nêu, thì thời gian tự động xóa án tích sẽ tính từ khi họ hoàn thành hình phạt bổ sung đó. Điều này nhằm đảm bảo rằng quyền lợi của người bị kết án sẽ được bảo vệ một cách đầy đủ và công bằng.
-
Ngoài ra, cũng theo quy định tại Điều 62
Văn bản hợp nhất năm 2017, hợp nhất Bộ luật Hình sự các quy định liên quan đến miễn chấp hành hình phạt cũng được nêu rõ. Cụ thể, những người bị kết án có thể được miễn chấp hành hình phạt khi họ được đặc xá hoặc đại xá. Đối với những người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn không quá 03 năm mà chưa thực hiện hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt nếu họ thuộc một trong các trường hợp như đã lập công, mắc bệnh hiểm nghèo hoặc có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và không còn nguy hiểm cho xã hội.01/VBHN-VPQH -
Đối với những người bị kết án phạt tù trên 03 năm nhưng chưa thực hiện hình phạt, nếu họ đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội, Tòa án cũng có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Đối với những trường hợp khác như bị phạt tiền nhưng gặp khó khăn kinh tế do thiên tai hoặc ốm đau, Tòa án cũng có thể miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. Thêm vào đó, những người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế cũng có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại nếu họ đã chấp hành tốt và cải tạo tốt trong thời gian qua.
-
Tuy nhiên, những người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án. Điều này cho thấy rằng, mặc dù có sự khoan hồng trong việc miễn chấp hành hình phạt, nhưng họ vẫn không được miễn trừ trách nhiệm đối với các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đặc xá được xem là hình thức miễn chấp hành hình phạt, không đồng nghĩa với việc xóa án tích. Một người được đặc xá vẫn phải chịu trách nhiệm về án tích của mình cho đến khi đáp ứng các điều kiện cần thiết để được xóa án tích theo quy định của pháp luật.
2. Thời hạn để xóa án tích trong trường hợp đặc xá được tính như thế nào?
Tại Điều 73 Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017, văn bản hợp nhất của Bộ luật Hình sự đã quy định rõ về cách thức tính toán thời hạn để xóa án tích.
-
Theo đó, thời gian xóa án tích sẽ dựa vào hình phạt chính mà Tòa án đã tuyên đối với người bị kết án. Điều này cho thấy sự linh hoạt, cho phép các Tòa án căn cứ vào tình hình cụ thể của từng trường hợp để xác định thời hạn xóa án tích một cách chính xác.
-
Trong trường hợp người bị kết án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, dẫn đến việc bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì thời hạn để xóa án tích trước đó sẽ được tính lại. Thời hạn này sẽ bắt đầu từ ngày mà cá nhân đó hoàn thành hình phạt chính của bản án mới, thời gian thử thách của án treo trong bản án mới, hoặc từ ngày mà bản án mới hết thời hiệu thi hành. Điều này có thể được hiểu là việc thực hiện tội phạm mới đã làm phát sinh một tình huống mới trong quá trình xét xử, vì vậy thời gian để xóa án tích sẽ phải được xem xét lại và bắt đầu từ một mốc thời gian mới.
-
Ngoài ra, đối với những người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội, nếu trong số đó có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích và có tội phải được xóa án tích theo quyết định của Tòa án, thì thời hạn xóa án tích sẽ được quyết định dựa trên thời gian quy định tại Điều 71 của Bộ luật Hình sự. Tòa án sẽ tiến hành xem xét từng tội danh mà người bị kết án đã thực hiện và dựa trên các quy định pháp luật để đưa ra quyết định về việc xóa án tích cho từng tội danh đó. Đây là một quy trình cần thiết nhằm đảm bảo rằng các quyết định của Tòa án là công bằng và hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
-
Đặc biệt, những người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại sẽ được coi là đã hoàn thành xong hình phạt. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó cho thấy rằng việc miễn chấp hành không chỉ đơn thuần là một hình thức giảm nhẹ mà còn được coi là một sự công nhận rằng cá nhân đó đã đủ điều kiện để được xóa án tích, mà không cần phải trải qua thêm thời gian chấp hành hình phạt.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 62 của Văn bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH năm 2017, hợp nhất Bộ luật Hình sự, đặc xá được xác định là một hình thức miễn chấp hành hình phạt. Do đó, trong trường hợp mà một người được đặc xá, nếu từ thời điểm được đặc xá đó, họ đã hoàn thành xong các hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội mới nào trong thời gian quy định theo pháp luật, thì họ sẽ đủ điều kiện để được xóa án tích.
3. Trường hợp nào không được đề nghị đặc xá?
Theo quy định tại Điều 12 Luật Đặc xá năm 2018, có những trường hợp cụ thể mà cá nhân đủ điều kiện theo Điều 11 không được phép đề nghị đặc xá. Những trường hợp này bao gồm:
-
Những người đã bị kết án phạt tù với các tội danh nghiêm trọng như phản bội Tổ quốc, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, gián điệp, xâm phạm an ninh lãnh thổ, bạo loạn, khủng bố nhằm chống lại chính quyền nhân dân, phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá rối an ninh, chống phá cơ sở giam giữ, khủng bố, hoặc bất kỳ tội nào thuộc chương về tội phạm chiến tranh, chống loài người và phá hoại hòa bình theo Bộ luật Hình sự.
-
Bản án hoặc một phần bản án của Tòa án đối với cá nhân đó đang bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm với mục đích tăng nặng hình phạt.
-
Người đang trong quá trình bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến một hành vi phạm tội khác.
-
Người đã từng được đặc xá trong quá khứ.
-
Những người có từ hai tiền án trở lên.
-
Ngoài ra, còn có thể có những trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.
Những quy định này nhằm đảm bảo rằng chỉ những cá nhân thực sự có khả năng cải tạo và không gây nguy hiểm cho xã hội mới có thể được xem xét cho đặc xá.
THAM KHẢO THÊM: