Người điều khiển xe đạp buông cả hai tay bị phạt hành chính như thế nào? Người điều khiển xe đạp buông cả hai tay bị xử lý hình sự?
Khi tham gia giao thông chúng ta cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về an toàn giao thông để có thể đảm bảo an toàn cho chính người tham gia giao thông và các phương tiện khác di chuyển trên đường, nhưng hiện nay trên thực tế còn rất nhiều vấn đề đang còn tồn tại và nhiều lỗi vi phạm an toàn giao thông gây ra những hậu quả không đáng có và ảnh hưởng tới an ninh trật tự khu phố. Chẳng hạn như những người điều khiển xe đạp buông cả hai tay, đây là hành vi không phải hiếm gặp, ngay cả trên những đường làng ngõ xóm cũng có những hành vi này. Vậy người điều khiển xe đạp buông cả hai tay bị xử lý như thế nào? Ngay dưới đây bạn đọc hãy cùng chúng tôi tìm hiểu rõ hơn về nội dung này và tuân thủ đúng quy định về an toàn giao thông nhé.
Cơ sở pháp lý:
–
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Người điều khiển xe đạp, xe đạp máy buông cả hai tay thì bị xử lý hành chính như thế nào?
Hàng ngày khi tham gia giao thông, chúng ta chắc hẳn bắt gặp tình trạng người điều khiển xe đạp, xe đạp máy buông cả hai tay, lạng lách đánh võng không chỉ nguy hiểm cho chính người điều khiển xe đạp, xe đạp máy mà còn ảnh hưởng đến các phương tiện tham gia giao thông, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng.
Theo quy định tại Khoản 5, Điều 4 Luật giao thông đường bộ quy định về nguyên tắc hoạt động giao thông đường bộ như sau:
“Người tham gia giao thông phải có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.
Tuy nhiên không phải ai khi tham gia giao thông đều ý thức được an toàn cho chính bản thân mình và những người tham gia giao thông. Do đó pháp luật đã quy định về xử phạt đối với Người điều khiển xe đạp, xe đạp máy buông cả hai tay bị xử lý như thế nào? trong các văn bản cụ thể.
Căn cứ quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 8 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt quy định về xử phạt người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ:
“Điều 8. Xử phạt người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác vi phạm quy tắc giao thông đường bộ
Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Điều khiển xe đạp, xe đạp máy buông cả hai tay; chuyển hướng đột ngột trước đầu xe cơ giới đang chạy; dùng chân điều khiển xe đạp, xe đạp máy”.
Từ đó cho thấy tùy mức phạt đối với hành vi nêu trên được xem là nhẹ nhưng đó là biện pháp chế tài phù hợp, mang tính răn đe, giáo dục người tham gia giao thông phải tự ý thức được bảo vệ an toàn cho chính bản thân mình đồng thời đây là biện pháp quản lý của Nhà nước mang tính bắt buộc, công dân không được thực hiện các hành vi mà Nhà nước cấm.
2. Người điều khiển xe đạp, xe đạp máy buông cả hai tay có bị xử lý hình sự?
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định nguyên tắc xử lý đó là mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được xử lý kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Theo đó, tại Chương XXI, Bộ luật hình sự 2015, quy định cụ thể về các tội phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, cụ thể tại Điều 260 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:
“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Như vậy, hành vi điều khiển xe đạp, xe đạp máy ngoài xử phạt hành chính, còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ yếu tố cấu thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 260
Hàng năm, số lượng người chết vì tai nạn giao thông luôn nằm ở mức đáng báo động, mà hệ quả của nó để lại hết sức nặng nề: con mất bố, vợ mất chồng, cha mẹ mất con và ngược lại; còn những người dù cố ý hay vô ý gây nên tai nạn giao thông đều phải chịu trách nhiệm về hành vi mình gây ra.
Do đó, mỗi chúng ta nên tự ý thức được chấp hành đúng quy định giao thông đường bộ là bảo vệ chính bản thân, bảo vệ người xung quanh, bảo vệ chính gia đình của chúng ta, xây dựng một lối sống lành mạnh, văn minh và tham gia giao thông một cách an toàn nhất
Việc điều khiển xe đạp, xe gắn máy luôn đòi hỏi những người có tay lái vững vàng để hạn chế tối đa nguy cơ gây ra tai nạn. Tuy nhiên, vì chủ quan cũng như vì muốn thể hiện mà nhiều thành phần tham gia giao thông lại buông cả hai tay khi điều khiển xe, gây lo ngại cho người đi đường khác cũng như cho chính bạn bè người thân của họ. Đây là lý do pháp luật đã đưa ra những chế tài thích hợp để xử lý tình huống này nhằm cảnh báo những người vi phạm và những người tham gia giao thông khác.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Người điều khiển xe đạp buông cả hai tay bị xử lý như thế nào” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành, hy vọng các thông tin trên đây sẽ hữu ích đối với bạn đọc.