Khi đến hạn thì bên vay sẽ phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên cho vay đúng với số tiền mà các bên đã thỏa thuận trước đó. Tuy nhiên có những trường hợp không may, cha mẹ đang vay ngân hàng thì qua đời. Vậy, nghĩa vụ của con cái trong trường hợp này được xác định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Đang vay ngân hàng mà qua đời thì nghĩa vụ trả nợ có chấm dứt không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, cụ thể như sau:
– Những người được xác định là người thừa kế theo quy định của pháp luật sẽ phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản mà người chết để lại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
– Trường hợp di sản mà người chết để lại chưa được chia theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại sẽ được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản mà người chết để lại;
– Trong trường hợp di sản mà người chết để lại đã được chia trên thực tế thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình được nhận, tuy nhiên không vượt quá phần di sản mà mình nhận đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
– Trong trường hợp những người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại giống như người thừa kế được xác định là cá nhân.
Như vậy thì có thể nói, nếu như người vay ngân hàng qua đời thì những người hưởng thừa kế số di sản mà người chết để lại sẽ phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về việc người thừa kế không được quyền từ chối nhận di sản trong trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh quá trình thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba. Vì vậy có thể nói, khi người vay tiền chết thì những người thừa kế của những người này sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản thừa kế mà người chết để lại. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý về việc, nếu như trong hợp đồng vay tiền có thỏa thuận rằng chỉ người vay mới là người trả nợ thì khi người vay qua đời, hợp đồng vay tiền đó sẽ đương nhiên chấm dứt căn cứ theo quy định tại Điều 422 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Tóm lại, khi người vay tiền qua đời thì những người thừa kế của người đó sẽ phải có nghĩa vụ trả tiền trong phạm vi di sản mà người chết để lại, trừ trường hợp hợp đồng vay tiền được ký kết giữa các bên có thỏa thuận nghĩa vụ trả tiền phải do chính cá nhân vay trả hoặc có thỏa thuận khác. Trong trường hợp những người thừa kế cố tình không trả thì bên bê hoàn toàn có quyền khởi kiện tại tòa án nhân dân cấp võ thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Khi đó thì các bên cần phải chuẩn bị những loại giấy tờ chứng minh về việc vay tiền đó và chứng minh về quyền lợi của mình đang bị xâm phạm.
2. Nghĩa vụ của con khi cha mẹ đang vay ngân hàng qua đời:
Căn cứ theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thời điểm và địa điểm mở thừa kế. Theo đó thì thời điểm mở thừa kế sẽ được xác định là thời điểm mà người có di sản chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết theo quy định của pháp luật thì thời điểm mở thừa kế sẽ được xác định theo Điều 71 của Bộ luật dân sự năm 2015. Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 614 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế. Theo đó thì kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là từ thời điểm người có di sản chết thì những người thừa kế theo quy định của pháp luật sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Nghĩa vụ tài sản do người chết để lại hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015 theo như phân tích nêu trên. Căn cứ theo Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hàng thừa kế như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy có thể nói, trong trường hợp cha mẹ đang vay ngân hàng mà qua đời, mặc dù trong hợp đồng vay được ký kết với ngân hàng đó không đi về nghĩa vụ của những người thừa kế, nhưng theo quy định của pháp luật nêu trên thì những người đó gửi thừa kế di sản do bố mẹ để lại vẫn sẽ phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng trong phạm vi di sản mà người chết để lại đó. Trong trường hợp bố mẹ không để lại di chúc thì việc chia di sản thừa kế sẽ được thực hiện theo pháp luật, và con cũng sẽ được xem là một trong những đối tượng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015 và sẽ phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng thay cho bố mẹ. Vì vậy cho nên, khi những người con được hưởng di sản thừa kế từ bố mẹ để lại thì người con đó sẽ phải có nghĩa vụ trả nợ ngân hàng tương ứng với phần di sản mà mình được hưởng và không vượt quá phần di sản được nhận trên thực tế, trừ trường hợp những người đồng thừa kế có thỏa thuận khác.
3. Quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Pháp luật hiện nay cũng có quy định cụ thể về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Căn cứ theo quy định tại Điều 658 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán. Theo đó thì các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí có liên quan đến thừa kế do người chết để lại sẽ được thanh toán theo thứ tự cơ bản sau đây:
– Các chi phí hợp lý theo tập quán đáp ứng cho việc mai táng;
– Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
– Chi phí cho việc bảo quản di sản;
– Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
– Tiền công lao động;
– Tiền bồi thường thiệt hại;
– Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước;
– Các khoản nợ khác đối với những chủ thể được xác định là cá nhân hoặc pháp nhân;
– Tiền phạt;
– Các chi phí khác.
Theo đó thì có thể nói, thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là một trong những chế định vô cùng quan trọng được pháp luật nước ta quan tâm từ trước đến nay. Khi Bộ luật dân sự năm 2015 hiện nay có hiệu lực thì chế định này vẫn được quy định và vẫn được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và các khoản chi phí khác có liên quan đến hoạt động được kể theo quy định của pháp luật sẽ được thanh toán theo thứ tự được quy định cụ thể tại Điều 658 của Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.