Cấp dưỡng được coi là nghĩa vụ trong một số trường hợp nhất định, đặc biệt là ly hôn- một trong những cơ sở làm phát sinh quan hệ cấp dưỡng. Để tìm hiểu rõ hơn về cấp dưỡng mời bạn tham khảo bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Nghĩa vụ cấp dưỡng là gì?
Khái niệm về cấp dưỡng được
Như vậy, quan hệ cấp dưỡng tồn tại giữa hai chủ thể, một bên là người có nghĩa vụ cấp dưỡng và một bên là người nhận cấp dưỡng. Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ có điều kiện, tương ứng với mỗi quan hệ khác nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Theo từ điển Luật học, nghĩa vụ là “việc phải làm theo bổn phận của mình”. Dưới góc độ ngôn ngữ học, nghĩa vụ được hiểu là “việc buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác mà pháp luật hay đạo đức quy định”.
Cùng với khái niệm cấp dưỡng, có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng là một nghĩa vụ pháp lý mà một người bắt buộc phải làm đối với người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu bằng việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho họ phù hợp với khả năng thực tế của mình, để bù đắp những tổn thất về mặt vật chất cho chủ thể nhận cấp dưỡng khi không được chung sống đồng thời với người cấp dưỡng.
2. Nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định theo quy định của pháp luật:
Nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
“1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này.”
Dựa trên quy định này, có thể nêu ra một số đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng, cụ thể:
Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng.
Các chủ thể được nêu ở Khoản 1 gắn bó khăng khít thông qua mối quan hệ ruột thịt hình thành trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Các chủ thể này có thể là thành viên trong gia đình hoặc không phải là thành viên trong gia đình nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Ví dụ trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bên nhờ mang thai hộ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định cảu Luật hôn nhân và gia đình khi chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng (khoản 3, Điều 98). Lúc này, các bên không phải là thành viên gia đình những vẫn phải có trách nhiệm cấp dưỡng do hình thành trên cơ sở huyết thống giữa bên nhờ mang thai và bên mang thai hộ.
Thứ hai, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên trong quan hệ cấp dưỡng, vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ không được chuyển giao cho người khác mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực hiện cho người có quyền được cấp dưỡng.
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng hay người được nhận cấp dưỡng không được đơn phương hay thỏa thuận việc thay thế nghĩa vụ cấp dưỡng bằng nghĩa vụ khác. Điều đó có nghĩa là bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm; hoặc cũng không thể sử dụng nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho sở cho những nghĩa vụ khác.
Đồng thời, chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho bất cứ ai. Nếu như một người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải tự mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải tự mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà không thể chuyển giao nghĩa vụ cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thay mình.
Tính không thể chuyển giao và không thể thay thế của nghĩa vụ cấp dưỡng nói riêng, quyền nhân thân nói chung đã được ghi nhận tại Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó: “quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.”
Thứ ba, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trước hết xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của bên thực hiện nghĩa vụ. Pháp luật cũng đã đưa ra những chế tài nhằm xử lý những trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng của mình như quy định về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 189
3. Ý nghĩa của nghĩa vụ cấp dưỡng?
Đối với một gia đình bình thường, các thành viên có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và đó là điều tất yếu. Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng được như vậy, vì nhiều lý do như vợ chồng ly hôn, vợ hoặc chồng bị tai nạn mất, khiến cho gia đình phải chịu cảnh ly tán. Trong những trường hợp này để đảm bảo cuộc sống của người được nuôi dưỡng, đồng thời để thiện một một phần nào đó sự quan tâm, chăm sóc giữa người nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp “tương thân, tương ái” của dân tộc.
Nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong gia đình được bảo vệ, đồng thời tăng cường sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật,…với quan điểm dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em, tạo điều kiện cho người cao tuổi sống vui khỏe, có ích và người tàn tật được hòa nhập cùng cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được củng cố và gắn bó bền chặt.
Bên cạnh đó, các nghĩa vụ cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lý nhằm gắn kết các thành viên trong gia đinh trong một cộng đồng trách nhiệm, khi mà các giá trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luật sẽ là dây xích gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, làm thức tỉnh ở họ ý thức trách nhiệm mà trước hết là trách nhiệm đối với những người có quan hệ gia đình.
Nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình đã góp phần củng cố chức năng của gia đình qua việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để duy trì cuộc sống thiết yếu của người chưa thành niên, người cao tuổi, người tàn tật, không có khả năng lao động trong gia đình, là cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dày tốt trong những hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ ly hôn hoặc người mẹ sinh con ngoài giá thú,…Nghĩa vụ cấp dưỡng đã có đóng góp đáng kể vào việc củng cố chức năng xã hội cơ bản của gia đình, giúp cho gia đình hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà xã hội và tự nhiên giao cho mà không một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được.
Như vậy, có thể thấy rằng, nghĩa vụ cấp dưỡng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nghĩa vụ được pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhân và bảo vệ.
Cơ sở pháp lý sử dụng trong bài viết: