Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng không hề cố khơi gợi lên các mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và các nỗi đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết Nghị luận về truyện ngắn Chiếc lược ngà chọn lọc hay nhất.
Mục lục bài viết
1.Nghị luận về truyện ngắn Chiếc lược ngà chọn lọc hay nhất:
Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014), là một nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là với các tác phẩm viết về đề tài người lính và chiến tranh. Văn chương của tác giả Nguyễn Quang Sáng là một chất giọng nhẹ nhàng, chân thành, trong sáng và cảm động, chính vì vậy mà ông được mệnh danh đó là “một trong những con khủng long quý hiếm của nền văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù”. Với một tác phẩm nổi tiếng nhất của đời mình – Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng không hề cố khơi gợi lên các mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và các nỗi đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương.
Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà trước tiên có lẽ cần phải nói đến nỗi đau, nỗi bất hạnh của một người lính chiến – anh Sáu. Người đàn ông dường như đã hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa được tròn một tuổi. Anh Sáu hy sinh nhiều lắm, chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con của chính mình để theo tiếng gọi của Tổ quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường. Sau nhiều năm chiến đấu thì cuối cùng anh nhận lại được những gì? Một tấm thân đầy sương gió, một vết sẹo dữ tợn ở trên mặt và cuối cùng đó là sự xa lánh, kinh sợ của đứa con gái mà thuở bé anh chưa được ẵm bồng con ngày nào. Đứa trẻ ấy, nó chỉ thương một người cha ở trong bức ảnh của mẹ, chứ không phải một người đàn ông trung niên đang có vết sẹo xấu xí, và trong suốt những ngày nghỉ phép ấy, anh Sáu đã phải đối diện với các nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con. Rồi cả các cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào trái tim anh từng nhát, mang đến các nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn. Không chỉ vậy, trước sự hỗn láo của đứa con mà anh chưa được dạy dỗ ngày nào, anh đã đánh nó, khiến nó khóc bỏ đi, có lẽ bé Thu đau một thì anh Sáu lại là người đau mười. Rõ ràng là bé Thu không có lỗi, anh Sáu lại càng không có lỗi, lỗi là bởi hoàn cảnh trái ngang đã đẩy đưa khiến cho mối quan hệ cha và con trở nên căng thẳng. Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy sự cảm động yêu thương, mà người ta ước chi nó kéo dài được thêm vài giờ nữa thì anh Sáu đã lại phải vác súng quay trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó. Anh đã ra đi khi mà chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong một nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với người ra đi và những người ở lại. Vậy có thể nói rằng, nhân vật anh Sáu ở trong truyện ngắn Chiếc lược ngà chính là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói đó là: “Không có hạnh phúc nào cho người lính”. Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm một phần trân trọng những gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời phải có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.
Một nhân vật thứ hai nữa trong truyện ngắn ấy là bé Thu, có thể nói rằng cô bé cũng là một trong các nạn nhân gián tiếp của chiến tranh. Bé Thu có hoàn cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ ngày cô còn bé còn chưa biết gì, thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà ở những năm tháng đất nước nhiều đau thương. Thế nhưng có lẽ trẻ con thời kỳ này trưởng thành sớm, Thu là một cô bé rất biết suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha và ở trong trái tim bé nhỏ của nó không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn là cả một tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng. Nhưng chính sự xa cách và cả những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những bi kịch gia đình, khi mà cô bé một lòng yêu thương và trân trọng người đàn ông trẻ tuổi ở trong tấm ảnh, cô bé ấy không thể hiểu được rằng bom đạn sẽ có thể lấy đi của người ta tất cả mọi thứ và để lại ở trên thân thể những vết sẹo không bao giờ lành. Sự kỳ vọng bao nhiêu về một người cha trẻ trung, sáng láng thì ở bé Thu lại càng thất vọng và sợ hãi khi thấy một người tự xưng là cha mình nhưng mặt lại có vết sẹo dữ tợn, một bộ dáng phong trần già nua, khác hoàn toàn với những gì bé tưởng tượng. Điều ấy khiến bé Thu thất vọng và căm ghét chính người đàn ông trước mắt, Thu không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng “cha” nào cả, và còn có các hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu. Khi ấy người ta mới thật thấm thía những bi kịch gia đình của người lính, khi đã xa nhà quá lâu, đến vợ có khi còn quên mặt nói gì đến một đứa bé 8 tuổi chưa từng gặp mặt cha một lần nào, chưa từng được ôm hôn hưởng thụ thứ tình cảm phụ tử ấm áp như bé Thu. Thì việc bé Thu có hành vi giãy nảy, băn khoăn, khó chịu trong lòng khi đối diện với một ông Sáu hoàn toàn khác xa những gì mà bé biết là hoàn toàn có thể xảy ra và có lẽ nó đã xảy ra trong rất nhiều gia đình của các người lính chiến. Thế mới nói một khi người lính ra đi, họ chỉ có thể mất đi nhiều thứ, chứ chẳng nhận được điều gì ngoài việc là đất nước nay mai được hòa bình. Một lý tưởng vĩ đại, đã đựng dựng nên bằng hàng vạn của những hy sinh mất mát mà không phải ai cũng thấu hiểu. Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha và bé Thu có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì khi đó cũng là lúc anh Sáu phải quay lại chiến trường. Cuộc hội ngộ cha con cảm động chỉ diễn ra trong vài phút giây ngắn ngủi, ông Sáu vẫn chưa thể bù đắp được gì cho con, còn bé Thu cũng chưa kịp yêu thương ông Sáu như những gì nó hằng tưởng đến. Đó là một nỗi đau không chỉ của riêng hai nhân vật mà nó còn là nỗi đau chung của nhiều gia đình ở trên đất Việt lúc bấy giờ, bao nhiêu tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em, tình vợ chồng nhiều khi chỉ kịp bùng lên trong một nhoáng rồi đứt đoạn vì những hy sinh mất mát trong chiến tranh, để cho những người ở lại có biết bao xót xa, ân hận. Đặc biệt ở trong hoàn cảnh của bé Thu, ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô bé Thu còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn. Người con gái ấy kể cả khi đã lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất một chiếc lược ngà là kỷ vật người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.
Nhưng có một điều không thể nào chối cãi được rằng, dù gần gũi thì ít, xa cách thì nhiều thế nhưng về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu là những tình cảm thật thắm thiết và sâu nặng. Khi bản thân chính ông Sáu cố gắng bù đắp, cố gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, nén nhịn nỗi đau nỗi tức giận trước sự lạnh nhạt của bé Thu, chỉ mong được con bé thừa nhận. Đến khi ra chiến trường nhiều nguy hiểm gian khó, ông Sáu vẫn nhớ y nguyên về những lời dặn dò của bé Thu tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong rồi thì luôn đặt ở trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ. Có thể nói có bao nhiêu yêu thương đều dồn cả vào trong đó. Ở bé Thu tồn tại những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của người mẹ, của người bà, và cuối cùng là khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận cha, vì sợ không được gặp cha của mình nữa. Có thể nhận thấy rằng Thu là một đứa trẻ hiểu chuyện, tuy là bé có cứng đầu, thế nhưng là một đứa trẻ ngoan, sẵn sàng sửa sai khi nhận ra lỗi lầm của mình.
Đến nay chiến tranh dù đã qua đi được hơn nửa thế kỷ nhưng có những nỗi đau, có những câu chuyện vẫn khiến cho nhiều độc giả phải thấy xúc động và đau đớn cho nhân vật, cuộc đời của những người lính chiến và gia đình của họ. Đặc biệt là trong truyện ngắn Chiếc lược ngà thì tình cảm cha con giữa hai nhân vật ông Sáu và bé Thu vừa khiến cho người ta cảm động lại cũng là một bi kịch đầy xót xa, khiến chúng ta không thể không có nhiều trăn trở suy nghĩ.
2. Nghị luận về truyện ngắn Chiếc lược ngà đặc sắc nhất:
Chiếc lược ngà là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về đề tài chiến tranh. Tuy nhiên, nhà văn đã không tập trung khắc họa những nguy hiểm trên chiến trường ác liệt, mà tập trung khai thác những vết thương mà nó đem lại vào trong cuộc sống của con người thời loạn. Thông qua việc khắc họa chân thực đến đau lòng về câu chuyện của cha con ông Sáu và bé Thu.
Trong câu chuyện, bố của bé Thu là một người lính xa nhà đã lâu và chỉ tranh thủ về thăm nhà trong vài ngày. Giữa ông và con gái – bé Thu đã có một khoảng cách lớn bởi lẽ từ khi bé Thu còn nhỏ, ông đã đi lính mãi tới tận bây giờ. Và khi trở về, ông lại có một vết sẹo lớn ở trên mặt, khiến cho cô gái nhỏ không nhận ra cha của mình. Cũng chính vì thế mà trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi đó, bé Thu thể hiện sự giận dỗi và không chịu gọi ông Sáu là “ba”. Đến khi cô bé nhận ra và hiểu được ý nghĩa của vết sẹo, nhận lại ba thì lúc đó ông Sáu lại phải ra chiến trường và lần này vĩnh viễn nằm lại ở đó. Bi kịch hết sức đau đớn của tình cha con ấy đã được ngòi bút hiện thực sâu sắc của tác giả Nguyễn Quang Sáng khắc họa lại đầy lạnh lùng và tàn nhẫn. Đó là bi kịch của gia đình ông Sáu, bi kịch của người cha và người con gái phải xa cách nhau bởi chiến tranh, loạn lạc. Vết sẹo trên mặt ông Sáu, đó không chỉ là vết sẹo trên gương mặt, mà nó còn là biểu tượng cho vết sẹo trong trái tim ông khi mà phải xa gia đình, phải chịu ánh mắt xa lạ, sợ hãi của con gái. Nó cũng là biểu tượng của những đau thương, sự mất mát mà đồng bào ta phải gánh chịu bởi lũ giặc độc ác đang giày xéo trên mảnh đất quê hương. Chính bởi vì vết sẹo đó, mà bé Thu vốn luôn tự hào về cha, luôn mong ngóng cha đã không nhận ra cha của mình, bỏ lỡ những khoảng thời gian đoàn tụ ngắn ngủi của gia đình. Để rồi sau này, khi ong Sáu ra đi mãi mãi, cô bé đã phải ôm nỗi hối tiếc, ân hận mãi về sau. Niềm an ủi duy nhất của người đọc, có lẽ là tiếng gọi “ba” đau đớn đến xé lòng ngay ở phút chia tay của bé Thu và ông Sáu. Tiếng gọi đó đã tiếp thêm động lực to lớn cho ông Sáu trên con đường hành quân gian khổ. Đó là minh chứng cho sợi dây tình thân vô hình nhưng rất bền chặt của gia đình, điều mà chẳng bom đạn hay chiến tranh nào có thể cắt đứt.
Trong “Chiếc lược ngà”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng rất nhiều các từ ngữ và hình ảnh đặc trưng của vùng Nam Bộ để tái hiện lại cuộc sống của người dân ở nơi đây. Cùng với lối viết truyện mộc mạc, cách miêu tả giản dị và nghệ thuật xây dựng, khắc họa được diễn biến nội tâm nhân vật sâu sắc, Nguyễn Quang Sáng đã thực sự viết nên một truyện ngắn rất thành công và cảm động về tình phụ tử. Tác phẩm đó cũng như tình cảm cha con thiêng liêng, sống mãi trong lòng người đọc.
3. Nghị luận về truyện ngắn Chiếc lược ngà xuất sắc nhất:
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không kể đến tác giả Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn Chiếc lược ngà thấm đượm tình cha con.
Ông Sáu là người chiến sĩ xa nhà đi lính từ khi bé Thu – con gái ông vẫn còn rất nhỏ. Tám năm sau, ông Sáu đã có dịp trở về thăm gia đình, để được gặp lại vợ và con gái. Ngỡ tưởng rằng con gái ông sẽ hạnh phúc, vui mừng khi được nhìn thấy ba nhưng không, bé Thu không nhận ra ba vì trông ông Sáu không giống với người ba của bé trong ảnh. Bé đã hét lên gọi má khi ông Sáu lại gần: “Thu! Con”. Trong suốt ba ngày ở bên ba, bé Thu đã thường nói trống không, lạnh nhạt với ba. Đỉnh điểm, trong bữa ăn, khi ông Sáu gắp cho con cái trứng cá, bé Thu lại hất văng ra, khiến ông Sáu giận dữ và đánh con. Tối hôm đó, bé Thu nghe bà kể về vết sẹo ở trên gương mặt ba nên bé đã thấy mình cư xử không đúng, bé thương ba. Khi ông Sáu đi, bé Thu đã chạy ra gọi ba, ôm hôn ba mình khiến cho mọi người đều thấy cảm động. Sau khi chia tay, ông Sáu vẫn luôn nhớ về con gái yêu, ông tỉ mẩn khắc Chiếc lược ngà để tặng cho con gái. Nhưng ở trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã hi sinh. Trước khi chết, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà, chờ anh Ba hứa sẽ trao tận tay cho bé Thu rồi mới yên tâm nhắm mắt.
Câu chuyện trước hết ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng cao đẹp giữa bé Thu và anh Sáu. Tuy họ nhận nhau tại giờ phút muộn màng nhưng chính khoảnh khắc ấy đã vờ òa và bóp nghẹt bao trái tim bạn đọc. Bên cạnh đó, câu chuyện còn ca ngợi về lòng hi sinh, sự kiên nhẫn của người cha dành cho đứa con nhỏ, dù nó có không nhận mình, thậm chí là xa lánh mình nhưng vẫn luôn cố gắng để được nhận tình yêu thương từ con gái. Câu chuyện khiến những bạn đọc xúc động bởi sự ngây ngô của đứa bé, trong lòng chỉ tôn thờ người ba duy nhất mà mình biết thông qua tấm ảnh chứ không chịu nhận người khác là ba. Đến khi hiểu ra cơ sự thì ăn năn, tình cảm bao năm bị dồn ném bùng nổ thành hành động ôm chặt ba, khóc và không cho ba đi lính. Câu chuyện ca ngợi những con người đã dũng cảm thời chiến, không màng đến những lợi ích nhỏ nhoi mà một lòng lên đường đánh giặc bỏ lại ở phía sau mẹ già con thơ vì sự nghiệp tổ quốc. Nguyễn Quang Sáng cũng gián tiếp phê phán những tội ác của đế quốc đã gây ra chiến tranh khiến con người xa lìa cuộc sống đời thường và chia rẽ tình cảm của họ.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng câu chuyện vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng, bài học sâu sắc trong lòng bạn đọc.
THAM KHẢO THÊM: