Trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta đã từng được nghe qua thuật ngữ "nghi can", tuy nhiên không phải ai cũng hiểu và nắm rõ bản chất của thuật ngữ này. Trong nội dung bài viết dưới đây sẽ trình bày về khái niệm nghi can là gì và phân biệt giữa nghi can, nghi phạm, bị can và bị cáo để người đọc hiểu rõ về thuật ngữ này.
Mục lục bài viết
1. Nghi can là gì?
Pháp luật Việt Nam có rất nhiều thuật ngữ, những thuật ngữ này có ý nghĩa quan trọng đối với việc định hình một vấn đề nào đó. Trong số những thuật ngữ đó, bài viết này đề cập tới thuật ngữ nghi can và trình bày những thông tin liên quan đến nghi can.
“Nghi can” chính là thuật ngữ được dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên người này mới chỉ được xác định ở dạng nghi vấn mà cơ quan pháp luật chưa có đầy đủ chứng cứ và cơ sở để kết luận hay khẳng định chính xác người đó có phải là hung thủ hay không. Ngoài ra, nghi can cũng được hiểu là người đang bị nghi ngờ là có sự liên quan đến vụ án hình sự và thuộc vào trường hợp chưa bị bắt vì chưa đủ chứng cứ để kết tội họ.
Ví dụ trong một vụ án giết người nghiêm trọng xảy ra, cảnh sát hình sự sẽ không giới hạn ở bất cứ một người cụ thể nào duy nhất liên quan đến vụ án, bởi vì vụ án này sẽ có rất nhiều đối tượng có sự khả nghi và được đưa vào diện nghi vấn, hoặc những người bị người khác tố giác trong quá trình công an/ cảnh sát hình sự lấy lời khai. Lúc này chưa có căn cứ xác thực đủ khả năng để khẳng định người đó là người thực hiện hành vi giết người thì người đó được gọi là nghi can.
Người nghi can này từ đó được đưa vào tầm ngắm để theo dõi, quan sát hoặc bị bắt về trụ sở cảnh sát để tiến hành điều tra, trong quá trình điều tra mà công an đã tìm được căn cứ rõ ràng khẳng định người này chính là hung thủ trong vụ án thì bên cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành khởi tố và người nghi can này trở thành bị can.
Như vậy, khi một ai đó bị nghi ngờ là người có hành vi giết người nhưng chưa có bằng chứng cụ thể thì người đó mới chỉ là nghi can. Cơ quan điều tra có thẩm quyền cần thực hiện nghiệp vụ và công tác điều tra để có thể xác định rõ ràng liệu người nghi can đó có chính xác là hung thủ hay không mới có thể kết tội họ, không nên vội vàng đưa ra kết luận tránh những sai sót trong quá trình điều tra.
Tuy nhiên, trong Hiến pháp và pháp luật về tố tụng và điều tra hình sự của Việt Nam, kể cả đối với Bộ luật tố tụng hình sự cũng không tồn tại các thuật ngữ pháp lý nghi can, nghi phạm.
Nghi can trong tiếng Anh là Suspect.
2. Phân biệt giữa bị can và bị cáo:
Tiêu chí | Bị Can | Bị Cáo |
Khái niệm | Là người đã có quyết định khởi tố bị can được phê chuẩn | Là người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử |
Cơ sở pháp lý | Điều 60 BLTTHS 2015 | Điều 61 BLTTHS 2015 |
Quyền | Được biết lý do mình bị khởi tố; Được Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. | Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tham gia phiên tòa; Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; Nói lời sau cùng trước khi nghị án; Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Các quyền khác theo quy định của pháp luật. |
Nghĩa vụ | Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã; Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. | Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã; Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án. |
3. Phân biệt giữa nghi can, nghi phạm, bị can, bị cáo:
Ở góc độ pháp lý, theo quy định của Bộ luật TTHS chỉ tồn tại các tên gọi: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hiện trong Hiến pháp và pháp luật về tố tụng và điều tra hình sự, kể cả dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) sửa đổi, bổ sung không tồn tại các thuật ngữ pháp lý nghi can, nghi phạm. Cho nên, về tên gọi pháp lý, gọi người bị bắt bằng nghi can, nghi phạm đều không chính xác.
Nghi can và nghi phạm là hai thuật ngữ khá phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình. Tuy nhiên, trong bộ luật tố tụng hình sự hay các văn bản pháp lý liên quan khác lại không có quy định về hai thuật ngữ này. Do đó, bạn đọc rất hay bị nhầm lẫn mặc dù bản chất của nghi phạm và nghi can là khác nhau.
Nghi can có thể được hiểu là người bị nghi ngờ có liên quan đến vụ án, nhưng chưa có dấu hiệu phạm tội và chưa có lệnh bị bắt.
Nghi phạm có thể được hiểu là người bị nghi ngờ là tội phạm, có dấu hiệu của tội phạm, tuy vẫn chưa đủ chứng cứ chứng minh nhưng đã có lệnh bị bắt để điều tra.
Ở góc độ ngữ nghĩa, “nghi can” được hiểu là người bị nghi là có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt. Còn “nghi phạm” được hiểu là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt.
Khái niệm trong pháp luật tố tụng hình sự về “Bị can” và “Bị cáo” là để chỉ người có dấu hiệu tội phạm trong các quá trình khác nhau của của vụ án. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, bị cáo là người đã bị đưa ra xét xử. Tức là trong thời gian điều tra vụ án, người bị bắt giữ và tình nghi phạm tội được gọi là bị can, nhưng khi hoàn tất quá trình xét xử, có cáo trạng của VKS và Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can sẽ chuyển thành bị cáo.
Tuy nhiên, các bạn không nên nhầm lẫn giữa “nghi can”, “nghi phạm” là hung thủ hoặc là tội phạm, bởi lẽ người bị coi là nghi can hoặc là nghi phạm thì chỉ bị cơ quan nghi vấn họ liên quan đến vụ án hoặc nghi họ là tội phạm nhưng không khẳng định họ là tội phạm hay hung thủ. Nên việc dùng từ hung thủ hay tội phạm đối với nghi can và nghi phạm không chỉ là việc dùng sai thuật ngữ pháp lý mà còn là hành vi gián tiếp buộc tội họ là tội phạm trong khi họ chưa bị kết tội bởi Tòa án. Đây là hành vi vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự, cụ thể:
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Do đó, các bạn nên cẩn thận trong việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý để không hiểu sai tính chất và nội dung của vụ án.
Kết luận: Hai từ ” nghi phạm”, “nghi can” là thuật ngữ pháp lý thường được dùng trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên, mặc dù nó được sử dụng rất thông dụng nhưng lại không được quy định rõ trong