Qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống được nhà thơ gợi ra đầy sinh động, tươi tắn, ngập tràn sắc xuân. Sau đây là bài phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong cảnh ngày xuân hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo!
Mục lục bài viết
1. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân:
Tác phẩm truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Truyện Kiều hấp dẫn không chỉ bởi phản ánh sinh động hiện thực xã hội đương thời, mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà còn bởi bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Trong nghệ thuật miêu tả của Truyện Kiều không thể không kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ở đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Ở đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống được nhà thơ Nguyễn Du gợi ra đầy sinh động, tươi tắn:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cảnh mùa xuân được nhà thơ gợi mở bằng hình ảnh “con én đưa thoi”. Chim én vốn là một loại chim tiêu biểu, nó luôn gợi nhắc người ta đến mùa xuân bởi chính đặc tính sinh học của nó. Khi xuất hiện những đàn chim én bay lượn trên bầu trời cao là người ta biết mùa xuân đã về. Ngày xuân những cánh én chao liệng như gọi thêm cái náo nức, nhộn nhịp về cho đất trời. Ở đây, Nguyễn Du đã ví những cánh én như những con “thoi”, như để chỉ sự chảy trôi nhanh chóng của ngày xuân tựa như chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên khung vải. “Thiều quang” là làn ánh sáng đỏ hồng, tỏa rạng rực rỡ và ấm áp của ngày xuân. Trong không khí náo nức của những cánh chim én, bầu trời như cao hơn, rực rỡ hơn bởi những ánh nắng xuân nhẹ nhàng mà đầy tinh khiết, mang lại cái ấm áp cho vạn vật, khoác lên chúng bộ một sắc màu tươi tắn, mới lạ và đầy sức sống. Trên cái khung cảnh tuyệt sắc ấy của thiên nhiên, hình ảnh xanh mướt của cỏ non trải dài ra trước mắt người đọc “ Cỏ non xanh tận chân trời”. Hình ảnh những đám cỏ xanh mơn mởn trải ra bát ngát, mênh mông, dường như không có điểm dừng. Trong cảm nhận của đại thi hào Nguyễn Du, dường như những đám cỏ này trải dài đến tận đường “chân trời”. Trong không khí rộn ràng, khoe sắc của mùa xuân ấy, thu hút thị giác của độc giả không chỉ bởi cái nõn tươi của cỏ non, mà còn bởi những đốm trắng được điểm xuyết bởi những bông hoa lê “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Sự xuất hiện của sắc trắng hoa lê đã làm cho bức tranh ngày xuân thêm tươi đẹp, bộc lộ được trọn vẹn vẻ đẹp của ngày xuân.
Ngay cả khi bầu trời ngả bóng chiều tà, khi không khí ngày xuân dần dần lặng xuống, nhường chỗ cho bóng tối thì Nguyễn Du vẫn rất tài hoa, tinh tế mang đến cho người đọc một bức tranh chiều tà yên bình:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Khi chiều tà, không khí của ngày xuân trở nên trầm lắng hơn, thanh tĩnh hơn nhưng không vì đó mà mất đi cái vẻ hấp dẫn, mất đi cái nét đẹp vốn có của nó. Ở đây, nhà thơ Nguyễn Du đã sử dụng hệ thống các từ láy như: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để vẽ ra bức tranh chiều tà, các từ ngữ này không chỉ có chức năng biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn giàu giá trị biểu cảm. Trong đó, từ láy “nao nao” rất đặc biệt, bởi nó không chỉ gợi ra được cái nhịp chảy chậm rãi, từ từ của “dòng nước uốn quanh”, mà nó còn gợi ra được bức tranh tâm trạng của con người, đó chính là cảm giác mơ hồ buồn, có chút trống trải trong sự cảm nhận của con người. Cảnh buổi chiều của mùa xuân được nhà thơ Nguyễn Du khắc họa với vẻ đẹp trầm lặng, chậm rãi nhưng mọi cảnh vật vẫn thơ mộng như vậy, hữu tình như vậy. Cảnh vật vẫn mang cái thanh, cái nhẹ của mùa xuân, ánh nắng nhạt nhòa, dòng suối nhỏ, nhịp cầu chênh vênh. Đặc biệt, trong bức tranh buổi chiều mùa xuân, Nguyễn Du đã rất khéo léo lồng tâm trạng, cảm xúc của con người vào bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh thiên nhiên sinh động, chân thực hệt như cảm xúc của con người.
Bằng sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn thi sĩ, nghệ thuật miêu tả cảnh vật bậc thầy, Nguyễn Du đã tái hiện vô cùng chân thực, tự nhiên bức tranh ngày xuân với đầy đủ sắc thái, từ náo nức rộn rã đến cái nhẹ nhàng, chậm rãi của cảnh vật, từ cái tấp nập, háo hức đến vẻ trầm tĩnh, nao nao của cảm xúc con người. Bức tranh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh tươi đẹp, sống động nhất, nó thể hiện được tài năng miêu tả bậc thầy và tâm hồn đầy tinh tế của nhà thơ Nguyễn Du.
2. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân hay nhất:
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam – danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm ”Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Bút pháp gợi và tả của Nguyễn Du được thể hiện rất rõ qua đoạn trích ”Cảnh ngày xuân”. Đây là một đoạn trích thành công nhất trong nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân với vẻ đẹp riêng: hữu tình, hữu sắc, hữu hương, lên thơ.
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Bằng bút pháp chấm phá kết hợp với gợi tả, hai câu thơ đầu vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian. Nhưng không gian ấy không tĩnh mà rất sống động bởi hình ảnh ”con én đưa thoi”. Đây là một hình ảnh tả thực, trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn rộn ràng chao đi chao lại giữa bầu trời trong sóng. Nhưng đồng thời nó còn là hình ảnh ẩn dụ, ngụ ý. Chỉ thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Mùa xuân có chín mươi ngày, mới đó thôi mà giờ đã sang tháng ba, gợi sự nuối tiếc trong lòng người. Sau đó hình ảnh ”con én đưa thoi” là thiều quang, thiều quang gợi lên cái mùa hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời. Đặc biệt bức họa tuyệt đẹp của mùa xuân là ở hai câu thơ:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du đã vận dụng một cách sáng tạo câu thơ cổ của Trung Quốc ”cỏ thơm liền với trời xanh – trên cành lê có mấy bông hoa”, thay vì dùng từ cỏ thơm Nguyễn Du đã dùng từ ”cỏ non” để tô đậm màu sắc – màu xanh của cỏ non trải rộng đến tận chân trời. Đó là gam màu nền của bức tranh xuân, trên thảm cỏ xanh ấy, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Từ ”trắng” được đảo lên trước gây ấn tượng mạnh, tuy chỉ là một vài chấm trắng nhỏ nhưng lại là điểm nhấn nổi bật tỏa sáng trên toàn cảnh. Như vậy, màu sắc có sức hài hòa đến tuyệt mĩ. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng, thanh khiết. Chữ ”điểm” làm cho bức tranh xuân thêm sống động, có hồn chứ không tĩnh tại.
Ở tám câu thơ tiếp theo, tác giả gợi khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh. Trong ngày thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ – đi viếng mộ sửa sang quét tước phần mộ của người thân, hội đạp thanh ở chốn đồng quê
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Cảnh trẩy hội mùa xuân diễn ta tưng bừng náo nhiệt, trên các nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao yến anh trẩy hội trong niềm vui nô nức, bao tài tử, giai nhân dập dìu vai sánh vai nhịp bước.
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Nguyễn Du khắc họa khung cảnh lễ hội mùa xuân bằng bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình, một loạt các từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ xuất hiện. Các danh từ: ”chị em, yến anh, tài tử, giai nhân” diễn tả sự đông vui, nhiều người đến dự hội. Các động từ “sắm sửa, dập dìu” gợi tả sự rộn ràng náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ “gần, xa, nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi dự hội. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cách nói ẩn dụ ”yến anh”, hoán dụ ”ngựa xe, áo quần”. Tất cả đều làm sống dậy không khí lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt diễn ra trên mọi miền đất nước, trẻ trung và xinh đẹp, trang trọng và phong lưu. Ai đã từng đi hội Chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử mới thấy hết được cái hay, cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du từng nói tới.
Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa một nét đẹp truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa: Tết thanh minh người ta sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo mới vui hội đạp thanh mọi người rắc những con thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng để tưởng nhớ người đã khuất.
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Sáu câu thơ cuối bài là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về, cảnh đẹp nhưng thoáng buồn vì nhuốm màu tâm trạng của con người
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Cảnh vẫn mang cái thanh dịu của mùa xuân. Ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ một dịp cầu nho nhỏ bắc ngang, ta thấy mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về Tây, bước chân người thơ thẩn, tuy nhiên cái không khí rộn ràng, náo nhiệt của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu bên cạnh những nét giống nhau còn có nét khác biệt bởi không gian và thời gian đã thay đổi nhưng điều quan trọng hơn cả là cảnh đã được nhìn qua tâm trạng của con người. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” cho thấy cảnh đã được nhân hóa một cách tự nhiên, cảnh nhuốm màu tâm trạng con người. Có thể nói sáu câu thơ cuối bài thơ là bức họa chiều xuân đẹp được nhìn qua tâm trạng con người
Như vậy, bằng những từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình qua đoạn trích ”Cảnh ngày xuân” Nguyễn Du đã gợi lên tư tưởng của người đọc một bức tranh thiên nhiên, cảnh lễ hội xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống cũng là một đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thành công nhất của ông. Ông không những là một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là một nhà họa sĩ ngôn từ tài tình.
3. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân siêu hay:
“Truyện Kiều” được biết đến là một tác phẩm xứng tầm kiệt tác được tạo nên bởi đại thi hào Nguyễn Du. Không chỉ được đánh giá cao ở mặt nội dung mà tác phẩm còn để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Trích đoạn “Cảnh ngày xuân” là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.
Tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Cách miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ lại hiện lên đậm chất tạo hình và hội họa với những hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân quen thuộc được miêu tả thông qua hình ảnh những cánh én sải cánh chao liệng trên bầu trời cao rộng, gợi lên bước đi không ngừng nghỉ của dòng thời gian. Ánh nắng mùa xuân được miêu tả qua cụm từ “thiều quang” gợi sắc màu tươi mới, dịu nhẹ, vừa ấm áp vừa rực rỡ của tiết trời xuân. Bức họa thiên nhiên tiếp tục được làm nổi bật bởi những gam màu mang đậm tính chất hội họa. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến tận cuối chân trời tạo nên một không gian bao la, rộng lớn ngút ngàn và khoáng đạt.
Và rồi sự chuyển động của thời gian cũng khiến cho lễ hội kết thúc, đồng thời ánh “thiều quang” không còn và thay vào đó là không gian buồn bã của bóng tà dương trong buổi xế chiều:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Cảnh thiên nhiên vẫn mang vẻ đẹp dịu nhẹ của mùa xuân thông qua hình ảnh “bóng tả về tây” gợi ánh nắng nhạt dần và mặt trời đang lặn xuống cùng những chi tiết về khe nước nhỏ – nơi mà con người bước đi cùng sự chậm rãi, “thơ thẩn” và dòng nước uốn quanh “nao nao” để gợi lên không gian bé nhỏ, thân thuộc khác với không gian rộng lớn, bát ngát ở khổ thơ đầu. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã, bâng khuâng và tiếc nuối. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ vô cùng đặc sắc thông qua việc tác giả đã sử dụng thành công hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các từ láy thường được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người – dụng ý của nhà thơ. Đặc biệt, qua cách sử dụng từ láy “nao nao”, sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi xuôi của dòng nước trong bóng chiều tà; đồng thời đó còn là sự “nao nao” trong tâm trạng của con người. Đó là sự bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân trong cảm xúc của người con gái “đa sầu đa cảm” Thúy Kiều, đó còn là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra – Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.
Thông qua trích đoạn “Cảnh ngày xuân” ta có thể thấy được tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Để phác họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sáng trong và bức tranh lặng lẽ buổi chiều tà, đại thi hào dân tộc đã lựa chọn những hình ảnh thơ đặc sắc và miêu tả trong sự hài hòa giữa màu sắc, đường nét và hình khối. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng thành công bút pháp “tả cảnh ngụ tình” để làm nổi bật dòng tâm trạng của con người ẩn chứa sau cảnh vật.
THAM KHẢO THÊM: