Trong cuộc sống hôn nhân, việc bảo đảm nguyên tắc một vợ, một chồng là một những nguyên tắc cơ bản để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và bảo vệ quyền lợi của hai bên trong mối quan hệ. Vậy hành vi chưa ly hôn mà sống với người khác có bị phạt hay không?
Mục lục bài viết
1. Chưa ly hôn mà sống với người khác có vi phạm pháp luật không?
Hiện nay, tình trạng ly hôn ở mọi lứa tuổi đang tăng nhanh, nhiều cặp vợ chồng ly hôn vì lý do khách quan hoặc chủ quan, có những cặp vợ chồng chưa ly hôn nhưng chọn biện pháp ly thân để có thời gian suy nghĩ về mối quan hệ hôn nhân. Theo quy định của pháp luật hiện nay thì người đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì tùy theo mức độ và hậu quả xảy ra trên thực tế, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trước tiên có thể khẳng định, hành vi chưa ly hôn mà sống với người khác bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì có thể nói, Chung sống như vợ chồng là việc nam nữ tổ chức chung sống với nhau trên thực tế và coi nhau như vợ chồng thực sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có ghi nhận về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, bao gồm các hành vi cơ bản sau:
– Kết hôn giả tạo hoặc ly hôn giả tạo trái quy định của pháp luật;
– Tảo hôn hoặc thực hiện các hành vi cưỡng ép kết hôn dưới mọi hình thức khác nhau, có hành vi lừa dối kết hôn, hoặc cản trở quá trình kết hôn của nam nữ;
– Người đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc những người chưa có vợ và chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với có người đã có vợ và đã có chồng;
– Tiến hành hoạt động kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, kết hôn hoặc chung sống giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa những đối tượng được xác định là cha mẹ nuôi với con nuôi, người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người được xác định là cha chồng với con dâu hoặc mẹ vợ với con rể, giữa những người được xác định là cha dượng với con riêng của vợ và mẹ kế với con riêng của chồng;
– Có hành vi yêu sách của cải trong quá trình kết hôn;
– Cưỡng ép ly hôn hoặc cản trở ly hôn, có hành vi lừa dối ly hôn;
– Thực hiện sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản xuất phát từ mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại cá nhân trái quy định của pháp luật, có hành vi lựa chọn giới tính thai nhi và sử dụng các biện pháp sinh sản vô tính;
– Có hành vi bạo lực gia đình hoặc lợi dụng các quyền về hôn nhân gia đình để mua bán, thực hiện các hành vi bóc lột sức lao động hoặc xâm hại tình dục của người khác, những hành vi khác nhằm mục đích trục lợi cá nhân.
Theo đó thì có thể nói, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi chưa ly hôn, tức là vẫn đang tồn tại mối quan hệ vợ chồng với người khác thì sẽ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật.
2. Nếu chưa ly hôn mà sống với người khác có bị phạt không?
Theo phân tích ở trên, thì chưa kết hôn và chung sống với người khác sẽ bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Vì vậy nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Căn cứ theo quy định tại Điều 59 của
Thứ nhất, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định pháp luật sau đây:
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng trên thực tế nhưng kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc đang có chồng;
– Đang có vợ hoặc đang có chồng nhưng lại có hành vi chung sống như vợ chồng với người khác;
– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng, tuy nhiên lại có hành vi chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc đang có chồng;
– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng trái quy định của pháp luật với người đã từng được xác định là cha mẹ nuôi, giữa cha chồng với con dâu, rữa mẹ vợ với con rể, giữa cha dượng với con riêng của vợ mẹ kế với con riêng của chồng trái luân thường đạo lý;
– Có hành vi cản trở kết hôn dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc có hành vi đưa ra những yêu sách của cải trong quá trình kết hôn, có hành vi cản trở ly hôn tự nguyện.
Thứ hai, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với các chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ trái quy định của pháp luật, kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người được xác định là cha mẹ nuôi với con nuôi;
– Có hành vi cố ép kết hôn hoặc cưỡng ép ly hôn, có hành vi lừa dối kết hôn hoặc lừa dối ly hôn;
– Lợi dụng quá trình kết hôn để xuất nhập cảnh trái quy định của pháp luật, cư trú hoặc nhập quốc tịch trên lãnh thổ của Việt Nam, hoặc nhập quốc tịch nước ngoài với mục đích trục lợi cá nhân, hưởng chế độ ưu đãi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc để đạt được những mục đích khác mà không hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc;
– Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba, thực hiện các hành vi vi phạm chính sách pháp luật về dân số và kế hoạch hóa gia đình, hoặc để đạt được các mục tiêu khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân tự nguyện và tiến bộ.
Như vậy thì có thể nói, nếu chưa ly hôn mà chung sống với người khác như vợ chồng sẽ bị phạt hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
3. Chưa ly hôn mà sống với người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Hành vi chưa ly hôn mà sống với người khác như vợ chồng hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng căn cứ theo quy định tại Điều 182 của
Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng chỉ cấu thành tội phạm khi có một trong những dấu hiệu sau:
– Đã gây ra hậu quả ly hôn của bên đang có vợ hoặc bên đang có chồng;
– Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng theo như phân tích ở trên nhưng vẫn còn vi phạm.
Điều 182 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về 2 khung hình phạt. Khung hình phạt cơ bản là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung hình phạt tăng nặng là bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
–
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị định số 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.