Nêu cảm nhận về nhân vật trữ tình trong bài Mùa xuân chín là nội dung câu hỏi ôn tập bài Mùa xuân chín trang sách giáo khoa Ngữ văn 10 Kết nối tri thức tập 1. Bài viết dưới đây mà mẫu gợi ý cảm nhận về nhân vật trữ tình trong bài Mùa xuân chín hay nhất. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Nêu cảm nhận về nhân vật trữ tình trong bài Mùa xuân chín:
Nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên là một con người tinh tế, yêu thiên nhiên. Điều này được thể hiện qua cảm nhận của nhân vật về độ chín của mùa xuân. Cảnh sắc thiên nhiên thay đổi như thế nào khi mùa xuân đến, nào là nắng lên rồi tắt dần, nào là ngôi nhà tranh không chút ánh sáng, nào là tiếng gió thổi trên áo, và cả trên không gian. Trời ơi, tôi đã thấy mùa xuân đến. Mùa xuân đã đến! Mùa xuân mang đến một sự mới mẻ, tràn đầy sức sống tạo nên một khung cảnh nên thơ, hài hòa.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một con người mang nhiều tâm tư. Ở lứa tuổi xuân thì những cô thôn nữ với giọng hát say đắm lòng người, có cô bỏ cuộc chơi đi lấy chồng khiến nhân vật trữ tình không khỏi bơ vơ, xót xa. Và chính những mùa xuân như thế, nỗi nhớ quê hương lại tràn về trong lòng những người con xa quê, khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi, thương cảm. Hình ảnh cô gái ganh thóc ngày xưa, liệu bây giờ có còn không? Hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhân vật trữ tình mang một nỗi nhớ da diết, buồn man mác.
2. Tìm hiểu về nhân vật trữ tinh trong bài Mùa xuân chín:
Nhân vật trữ tình là hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, là thủ pháp bộc lộ ý thức tác giả. Nhân vật trữ tình là con người “giống hệt” của tác giả – nhà thơ hiện ra từ văn bản của cấu trúc trữ tình (một chùm thơ, cả một sử thi hay cả một bài thơ) với tư cách là một con người. một đường nét hoặc một vai sinh động với một số phận cá nhân xác định hoặc một thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi bao gồm cả chân dung (tuy không bao giờ là nét riêng biệt của nhân vật như trong tác phẩm nghệ thuật). tự sự hay kịch).
Có những tranh cãi về khái niệm nhân vật trữ tình. Thông thường, người ta coi nhân vật lưu trữ là một hình tượng tiêu biểu với tư cách là một nhân cách văn học được xây dựng trên cơ sở lấy sự thật về tiểu sử của tác giả làm nguyên mẫu. Nó là một cái “tôi” đã được tạo ra. Ý kiến khác lại nhấn mạnh rằng với hình ảnh ấy, nhà thơ còn bộc lộ tình cảm chân thành của mình trong câu thơ chứa đựng cảm xúc và người đọc không lầm tưởng những tình cảm đó là có thật. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần đồng nhất nhân vật trữ tĩnh với tác giả, bởi trong thơ trữ tình, nhà thơ hiện lên với tư cách là “người đại diện cho xã hội, thời đại và nhân loại” (Belinsky), nhà thơ đã nâng mình lên tầm đời thường cá biệt.
3.Vài nét về tác giả, tác phẩm Mùa xuân chín:
3.1.Tác giả:
Hàn Mặc Tử (22/09/1912 – 11/11/1940) tên thật là Nguyễn Trọng Trí
Anh cùng gia đình vào thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định sinh sống năm 18 tuổi. Hàn Mặc Tử không may mắc bệnh phong và qua đời tại nhà thương Quy Hòa.
Ông là nhà thơ Việt Nam, người khởi xướng Trường thơ Loạn, người mở đường cho thơ lãng mạn Việt Nam hiện đại.
Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của thế giới nội tâm yêu thương với đủ mọi cung bậc cảm xúc khác nhau được đưa đến tận cùng.
Các tác phẩm của ông: Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật): Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời), Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên-1938), Xuân như ý, Thượng Thanh Khí (thơ)
3.2.Tác phẩm:
a.Giá trị nội dung:
Bài thơ thể hiện một khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống ở một vùng quê dân dã của một làng quê Việt Nam.
Thể hiện niềm thiết tha yêu đời, yêu người, yêu đời của nhà thơ, gửi gắm bao niềm tin yêu và hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp, mùa xuân đã có vị “chín” của lòng người.
b.Giá trị nghệ thuật:
Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu
Hình ảnh bài thơ gần gũi, thân thuộc
Giọng thơ tự nhiên, thủ thỉ, tình cảm
c.Phân tích bài thơ Mùa xuân chín hay nhất:
Không biết xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết rằng con người sinh ra với một sắc xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống và tâm hồn, sống ở đời, nếu không có xuân, thiếu thơ xuân thì buồn biết bao. Hôm qua, hôm nay và mai sau, có thơ xuân cho người, cho đời. Và hôm qua, có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong người lữ khách đến tràn về.
Nhắc đến mùa xuân, ai chẳng hiểu rằng đó là những thời khắc sôi động nhất của cuộc đời, của cuộc đời. Mùa xuân có vẻ đẹp trong từng khoảnh khắc, có khi là “mùa xuân nhỏ”, có khi là “mùa xuân xanh”… và đây “mùa xuân chín” nghe tươi tắn, nóng hổi và có một sức sống tiềm ẩn đang âm thầm thì thầm. sau đó. Đêm như mới, lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, phảng phất vẻ đẹp tâm hồn thi nhân. Mùa xuân bắt đầu với một ánh nắng mặt trời mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Đúng là nắng xuân, không phải nắng trong, không phải hạt nắng, không phải giọt nắng mà là “làn nắng”. Từ “làn” như gợi lên một hơi thở nhẹ nhàng, thiết tha như đưa tiễn, êm dịu trải đều trong thơ và trong không gian. Nắng lại “dung dăng dung dẻ” trong “khói mơ”. Khung cảnh nhẹ nhàng, xinh đẹp và huyền diệu. Sương khói lẫn với nắng; sắc thái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan biến”.
Ngòi bút của nhà thơ vẫn hướng đến lối thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như nhập hồn, như có tình tràn trề. Trân trọng đón nắng mới tinh khôi ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Lời đối đáp trong thơ tạo cảm giác ấm áp, cảnh vật cân đối hài hòa, hoàn toàn thơ mộng. Một vài nét đơn giản mà tinh tế nhưng gợi cảm, đơn giản nhưng đáng yêu.
Chỉ những “đôi mái nhà tranh” hiện ra trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một cuộc sống lay động, bình yên và mộc mạc, thân thuộc với mọi người. Nắng dường như rực lên những “mái nhà tranh” mang chút sắc xuân và hương xuân: Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Tiếng gió “trêu” tà áo và màu “biếc” của lá là tình yêu của mùa xuân.
Một chữ “trêu” sao mà thân thương, thân thương đến thế, chẳng gì bằng hương quê trong câu ca dao, bản tình ca buồn cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn chiếc áo mà “trêu ghẹo” phải không? chọn cho mình màu áo mới thật thơ, thật đẹp.Mùa xuân là thế, “chín” là thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái tranh, từ gió rồi đến bao quát: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có sự lắng đọng, ngập ngừng của cảm giác nhẹ nhàng, man mác buồn, lưu luyến đón “bóng xuân”, cô đọng cảm xúc như nín thở ẩn vào dấu chấm giữa dòng.
Dòng thơ cứ tuôn trào như mạch cảm xúc. Bên trời xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như cầm được, thấy được ngay trước mặt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau dấu chấm ngưng và rung lên như một sợi dây đàn căng thẳng trong tâm hồn nhà thơ, mùa xuân ùa về:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong cái bao la, rộng lớn của không gian. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba từ “gợn đến tận trời” gợi cảnh cỏ xanh đung đưa trong gió xuân nhè nhẹ. Không biết ngoài cỏ có sóng thật hay lòng thi nhân mới được gợn thành “sóng”?
Mùa xuân luôn là màu xanh của cỏ cây. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” ” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi. Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… (Nguyễn Du)… Bảng màu “xanh” tràn đầy sức sống thanh bình trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợi tả bầu trời”, trải dài miên man, miên man, đi vào hồn thơ . Trong sắc xuân ấy , tình cảm con người cũng chín muồi.
Khúc hát giữa mùa xuân sao quen quá, thân thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như hội Xuân muôn thuở của đất nước này được nói lên qua tiếng hát “vắt vẻo” và “ngây thơ” của những cô gái xuân thì của bao người. của bao cô thôn nữ.
Câu thơ gợi lên sự “trưởng thành” trong tâm hồn của những cô thôn nữ qua tiếng “vắt”, trong trẻo, tươi tắn của câu hát giao duyên, của những chàng trai, cô gái chân quê mộc mạc mà trìu mến. Tâm hồn nhạy cảm và thiết tha yêu đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử đã bắt nhịp với ca từ của bài hát ấy. Mùa xuân chỉ thực sự “chín” khi có tiếng người và tiếng vọng:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh lắng đọng trong từng âm tiết, tiết tấu rung, “vắt vẻo” hài hòa với âm trầm “mơ màng” thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và tài tình. Tâm hồn nhà thơ nhất định đã hòa vào thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng hát như vút cao, như trào dâng, như luyến tiếc giữa núi rừng. Âm vang của tiếng hát quanh quẩn như băn khoăn, rung động “vắt vẻo” gợi bao nỗi xao xuyến, xót xa trong lòng thi nhân. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như thở gấp, bồng bềnh trong sắc vàng đầy hương xuân, tình xuân, những cảm xúc vừa thực vừa mộng đến lạ lùng.
Lời ca của những cô thôn nữ thật đằm thắm, như cuốn hút lòng người, lấp đầy cả không gian, góp phần tạo nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thủ thỉ “thì thầm với ai…” trong bóng tre chắc chắn là lời tâm tình, thân thương.
“Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba thanh điệu trong ba âm thanh của mùa xuân chín, lắng sâu vào tâm hồn con người để nhẹ nhàng lắng đọng, chan chứa yêu thương. Sự phong phú về giai điệu, tiết tấu của những bài hát đồng quê làm say đắm lòng người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng: “Nghe ý nghĩa và hồn nhiên…”.
Khúc hát xuân mộc mạc, lãng mạn, đằm thắm, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “chín” dần trong lòng thôn nữ, chợt ngập ngừng như có không gian, ấp úng:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh ấy” là tiếng hát của cô thôn nữ, “thì thầm với ai ngồi dưới lũy tre” sẽ chín theo mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân.” Nấc thang qua đi, tuổi thơ hồn nhiên qua đi.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị đó năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Hình ảnh của kí ức hiện ra một trời buồn man mác trải xa. Nhà thơ nhớ người như nhớ về một tình người, tình đất nước. Mỗi người có một kỷ niệm rất buồn. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
“Mùa xuân chín” có khi vừa dồi dào, vừa nghe êm dịu trong tâm hồn thi nhân. Có lúc rạo rực, có lúc bối rối, ta như đang lắng đọng tâm hồn mình vào những cung bậc của mùa xuân để rồi bồi hồi, “nhớ…” và “bâng khuâng”. Nỗi niềm thương nhớ của lữ khách mãi là tình yêu, là niềm khao khát được đồng cảm với hương sắc và điệu nhạc xuân, với làng quê miền Trung quen thuộc “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…