Khi chúng ta thực hiện các giao dịch dân sự thì điều được quan tâm nhất đó chính là năng lực hành vi của các bên tham gia giao dịch và có đủ khả năng xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đối với giao dịch đó hay không. Theo đó nên tại bài viết hôm nay chúng tôi xin đề cập đến vấn đề Năng lực hành vi là gì?
Mục lục bài viết
1. Năng lực hành vi là gì?
Tại Điều 19. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy có thể thấy khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và tự chịu trách nhiệm về những hành vi của cá nhân hay tổ chức đó. Năng lực hành vi của tổ chức xuất hiện cùng với năng lực pháp luật vào thời điểm có quyết định thành lập hoặc thừa nhận tổ chức đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năng lực hành vi của các cá nhân xuất hiện muộn hơn so với năng lực pháp luật. Nếu năng lực pháp luật nói chung xuất hiện từ khi con người mới sinh ra thì năng lực hành vi xuất hiện khi con người đạt tới độ tuổi nhất định.
2. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
2.1. Cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ:
Theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có năng lục hành vi đầy đủ theo quy định thì người thành niên phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháo luật có thể nhận thức được hành vi của mình, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể thấy pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.
Theo đó mà người từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải chịu trách nhiệm pháp lý với các hành vi vi phạm pháp luật do họ gây ra. Họ chỉ bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của
2.2. Cá nhân có năng lực hành vi một phần:
Theo quy định của pháp luật quy định thì cá nhân có năng lực hành vi một phần hay còn gọi là không đầy đủ được hiểu là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Tại Điều 21 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về Người chưa thành niên, theo đó, người thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
– Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Theo đó, từ những phân tích trên có thể đưa ra kết luận đó là cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện.
Pháp luật quy định về người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu và toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 Bộ Luật dân sự 2015 quy định. Nếu những người đại diện không yêu cầu toà án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.
3. Cá nhân không có năng lực hành vi dân sự:
3.1. Cá nhân không có năng lực hành vi:
Theo quy định của pháp luật thì người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự vì ở độ tuổi này khi nói về nhận thức hành vi của một đứa trẻ rất khó để xác định. Mọi giao dịch của những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.
3.2. Cá nhân mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và đầy đủ khi cá nhân đến tuổi thành niên. Năng lực hành vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của cá nhân đó (chết hoặc toà án tuyên bố là đã chết). Tuy nhiên, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định.
Trong các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự do cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự căn cứ theo điều 22 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này do người đại diện của họ xác lập, thực hiện
Theo đó, các cá nhân được tuyên bố là mất năng lực hành vi nhưng nay không còn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó giải quyết việc này theo chính yêu cầu của người đó sẽ bị vướng mắc về tố tụng. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể tự khởi kiện hoặc yêu cầu toà án mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Đối với các trường hợp cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được hiểu là năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 24 Bộ Luật dân sự 2015. Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc dù về hình thức có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình.
3.3. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
Trường hợp cá nhân khó khăn để nhận thức và làm chủ hành vi theo quy định được ghi nhận tại Điều 23 Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định với các đặc điểm có các yếu tố về thể chất mà không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và có yêu cầu của người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan gửi đến tòa án.
Ngoài ra những người thuộc trường hợp này họ phải có kết luận giám định pháp y tâm thần theo quy định của pháp luật thì tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung Năng lực hành vi là gì? Năng lực hành vi dân sự của cá nhân? và các thông tin pháp lý liên quan dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.
Cơ sở pháp lý sử dụng trong bài viết:
Bộ Luật Dân sự 2015