Năm tài chính là gì? Cách tính năm tài chính trên thế giới

Năm tài chính là gì? Năm tài chính trong tiếng Anh là Fiscal year hoặc Financial year. Cách tính năm tài chính trên thế giới?

Năm tài chính là thuật ngữ được sử dụng trong hoạt động tài chính của một đất nước. Với khoảng thời gian được xác định tương ứng với các dự toán thu - chi tài chính. Đây là công việc thực hiện hoạt động quản lý nhà nước của một Chính phủ. Với tính chất xác định cho từng năm tài chính, giúp hoạt động quản lý tài chính diễn ra hiệu quả. Bên cạnh các đánh giá và cân đối về hiệu quả dòng tài chính của quốc gia. Ở mỗi quốc gia khác nhau, cũng có thể có tên gọi phản ánh khác. Cũng như các mốc thời gian cho một năm tài chính được quy định phù hợp.

1. Năm tài chính là gì?

Năm tài chính hay còn gọi là năm tài khóa, năm ngân sách.

Năm tài chính trong tiếng Anh là Fiscal year hoặc Financial year, viết tắt là FY.

Khái niệm.

Năm tài chính là khoảng thời gian mà trong đó dự toán thu - chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành. Dùng cho công tác kế hoạch ngân sách của tổ chức hoặc quốc gia. Năm tài chính có tính chất phản ánh khoảng thời gian tương đối ổn định. Giúp các quốc gia xác định các thời gian thuộc năm đó. Với ý nghĩa theo năm tài chính, khoảng thời gian này kéo dài tương đương với một năm lịch thông thường.

Năm tài chính giúp các dự toán được xây dựng. Trong đó phản ánh tính chất trong thu chi ứng với từng giai đoạn chia nhỏ cụ thể. Mang đến các dự toán chủ động, nhằm kịp thời tìm kiếm hay phân bổ các kế hoạch tài chính. Thực hiện các nội dung công việc và nhu cầu quốc gia. Năm tài chính thể hiện các khoảng thời gian ứng với kế hoạch dự toán tài chính.

Các dự toán được xác định trước đó là nhu cầu thực tế. Khi phê chuẩn để thực hiện trên thực tế, các khoản thu chi sẽ được tiến hành. Đảm bảo các quyền lợi bên cạnh nghĩa vụ của công dân với nhà nước. Cũng như mang đến các yếu tố đầu tư cho phát triển chung các công trình hay cơ sở hạ tầng. Vừa phản ánh bộ mặt quốc gia vừa mang đến các thuận lợi và hiệu quả cho phát triển kinh tế.

Dự toán thu chi tài chính.

Với ý nghĩa được phản ánh trong năm tài chính. Chính phủ thực hiện xác định các dự toán thu. Có thể thực hiện liệt kê với các nguồn thu ngân sách nhà nước. Phản ánh các nghĩa vụ được công dân thực hiện với chính phủ qua các hoạt động khác nhau. Truy nhiên nhìn chung, thuế thường là nguồn thu có giá trị lớn nhất trong ngân sách. Nghĩa là các nghĩa vụ cơ bản mà công dân đóng góp. Bởi vậy mà ở Mỹ, năm tài chính còn được gọi là năm thuế. Ở Việt Nam, năm tài chính được gọi là năm ngân sách.

Với dự toán thu ngân sách được phản ánh các giá trị chính phủ có khả năng tạo ra trong một năm tài chính. Phục vụ cho các mục đích tiêu dùng khác nhau. Đảm bảo cho các quyền lợi công dân. Cũng như mang đến thay đổi chất lượng và thuận lợi trong phát triển kinh tế.

Tiếp theo là xác định các dự toán chi ngân sách. Với các nhu cầu được phản ánh cho hoạt động thường xuyên và không thường xuyên. Cũng như các mục đích liệt kê được trong kế hoạch chi và những tiêu dùng đột xuất, không dự báo trước. Do đó ngoài các khoản chi, cần phải thực hiện các giá trị trong tiết kiệm. Với tất cả các tính toán ngân sách được thể hiện trong hoạt động của năm tài chính. Với các giai đoạn thực hiện nhất định, các hiệu quả sẽ phản ánh.

Nội dung về xác định năm tài chính.

Năm tài chính có độ dài tương đương với năm lịch. Tức là việc phản ánh thời gian năm tài chính thường tương đương giao động từ 52 đến 53 tuần. Phản ánh các hoạt động thực hiện cho một năm. Nó là các dấu mốc và khoảng thời gian được tính toán hợp lý. Ngoài ra để phù hợp và thuận tiện cho nhu cầu khác nhau, các quốc gia có thể xác định độ dài phù hợp cho năm tài chính. Nó được xác định dựa trên tính chất truyền thống. Cứ ít nhất khoảng một năm các tổ chức phải lập báo cáo tài chính hoặc khai báo thuế một lần. Phản ánh các căn cứ trong phân tích hay đánh giá hiệu quả với các khoảng thời gian tương đương.

Năm tài chính có thể trùng hoặc lệch với năm dương lịch, tùy theo từng quốc gia. Việc thực hiện có thể dựa trên các căn cứ lựa chọn ở các năm tài chính trước đó. Và đã trở thành thói quen phù hợp. Nó có thể được phản ánh khác nhau đối với các doanh nghiệp. Theo tính chất kết thúc năm tài chính trước đó. Sở dĩ có thể lệch là vì để tránh cho công việc tổng kết tài chính đầy phức tạp và bận rộn trùng với thời điểm kinh doanh bận rộn dịp cuối năm dương lịch cũng như thời điểm kỳ nghỉ cuối năm của nhân viên. Khi công ty muốn xác định các khoảng thời gian cần tập chung cho công việc. Bên cạnh khoảng thời gian nghỉ ngơi phù hợp.

Khoảng thời gian phản ánh trong năm tài chính.

Thậm chí, khoảng thời gian của năm tài chính đối với các công ty có thể không thống nhất. Khi các tính chất hoạt động trước đó không giống nhau. Những phù hợp và hiệu quả phản ánh sẽ được thực hiện. Và lý do mà doanh nghiệp lựa chọn năm tài chính phù hợp với yêu cầu hoạt động của họ. Có công ty chọn năm tài chính kéo dài 52 tuần. Lại có công ty chọn năm tài chính kéo dài 53 tuần. Tuy nhiên, đều thể hiện tương đương với một năm lịch. Và các giai đoạn nhỏ được kiểm soát cũng chia đều cho tính chất theo năm lịch.Khi hầu hết các tổ chức đều chia năm tài chính thành từng quý để xác định chiến lược tài chính hiệu quả.

Đây là thời kỳ hạch toán của các doanh nghiệp hoặc chính phủ, nó có thể khác với năm lịch. Đa số các chính phủ sử dụng năm lịch bình thường làm năm tài chính. Giúp dễ dàng xác định các thời điểm bắt đầu và kết thúc. Cũng như xác định các giai đoạn nhỏ hơn theo quý. Hoàn toàn dễ theo dõi khi năm lịch được sử dụng phổ biến và khá thống nhất trên thế giới. Nhưng một số nước có năm tài chính khác với năm lịch, chẳng hạn năm tài chính của nước Mỹ bắt đầu từ mùng 1 tháng 10 năm trước tới 30 tháng 9 năm sau. Từ tài khóa thường được sử dụng thay thế cho năm tài chính. Ví dụ năm tài chính 1999 còn được gọi là tài khóa 1999.

2. Cách tính năm tài chính trên thế giới:

Hiện nay, ở đa số các nước trên thế giới, thời gian cho một năm tài chính thường là 12 tháng. Với khoảng thời gian giao động từ 52 đến 53 tuần. Trùng với thời gian của một năm dương lịch. Với các giai đoạn thực hiện chiến lược được chia nhỏ. Giúp xác định và đánh giá các nội dung phản ánh trong từng giai đoạn. Từ đó mang đến các hiệu quả phản ánh chung cho năm tài chính. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của một năm tài chính giữa các nước có sự khác nhau. Xác định năm tài chính dựa trên hiệu quả hoạt động phù hợp yếu tố riêng biệt trong hoạt động quốc gia.

Trong thời gian của năm tài chính, các khoản thu và chi ngân sách nhà nước được thực hiện. Các dự toán được tiến hành trên thực tế. Được phản ánh vào báo cáo quyết toán ngân sách của năm. Kết thúc năm tài chính thì các hoạt động thu, chi phát sinh sẽ được phản ánh vào năm tài chính kế tiếp. Với các giá trị còn lại trong tiêu dùng có thể phản ánh là khoản giá trị ban đầu cho năm tài chính kế tiếp. Do đó tính chất tiếp nối của năm tài chính được phản ánh. Ngày hôm trước kết thúc năm tài chính cũ. Ngày hôm sau sẽ bắt đầu năm tài chính mới.

Cách tính năm tài chính ở một số nước trên thế giới.

+ Anh, Ấn Độ, Canada, Hong Kong, Nhật Bản: năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 của một năm. Và kết thúc vào cuối ngày 31 tháng 3 năm kế tiếp. Với năm tài chính vẫn thể hiện tính theo năm lịch. Tuy nhiên các mốc thời gian lực chọn không trùng với năm lịch.

+ Bỉ, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Thái Lan, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Việt Nam: năm tài chính trùng với năm dương lịch. Tức là bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 của chính năm đó. Các mốc thời gian phản ánh trùng với thời điểm bắt đầu và kết thúc năm lịch. Ngoài ra ở Việt Nam, doanh nghiệp có thể dựa trên năm 12 tháng khác với năm dương lịch mà Bộ tài chính cho phép doanh nghiệp được áp dụng.

+ Mỹ: Năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 của một năm và kết thúc vào cuối ngày 30 tháng 9 năm kế tiếp.

+ Úc: Năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 của một năm và kết thúc vào cuối ngày 30 tháng 6 năm kế tiếp.

+ Singapore: Việc xác định năm tài chính với nhiều đặc điểm khác biệt nhất. Năm tài chính của một doanh nghiệp không nhất thiết phải là 12 tháng. Việc chọn ngày kết thúc năm tài chính vào thời điểm nào là phụ thuộc vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp thành lập trước 31/08/2018 nếu không thông báo ngày kết thúc năm tài chính, thì năm tài chính sẽ tự động là 12 tháng kể từ ngày thành lập công ty. Ngược lại, doanh nghiệp đăng ký từ ngày 31/08/2018 trở đi bắt buộc phải thông báo cho Cơ quan quản lý kế toán và Doanh nghiệp Singapore ACRA ngày kết thúc năm tài chính khi thành lập công ty. Bất kỳ thay đổi nào về năm tài chính, các doanh nghiệp bắt buộc phải thông báo cho ACRA.

Kết luận.

Như vậy năm tài chính giúp các quốc gia thực hiện các dự toán tài chính. Từ đó các hoạt động thu chi được tiến hành và điều chỉnh trên thực tế. Với các năm tài chính được lựa chọn phù hợp và đảm bảo tính chất hiệu quả trong hoạt động. Thông thường, năm tài chính được tính trùng với năm lịch.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )