Hiện nay, tình trạng hút thuốc lá điện tử ở trẻ em ngày càng gia tăng, bởi vì các bạn trẻ coi đây là một trào lưu hiện đại thể hiện sự sành điệu của bản thân. Vậy mức phạt đối với hành vi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mức phạt khi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em như thế nào?
Hiện nay, công tác phòng chống tác hại của thuốc lá nói chung và thuốc lá điện tử nói riêng đã được các cơ sở giáo dục và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặc biệt chú trọng triển khai. Tuy nhiên, thực trạng sử dụng các sản phẩm thuốc lá vẫn đang xảy ra trong và ngoài nhà trường. Trẻ em hiện nay chưa hiểu đúng tác hại về thuốc lá điện tử và cho rằng thuốc lá điện tử là loại sản phẩm ít có hại hơn so với các loại sản phẩm thuốc lá điếu thông thường, có những người còn cho rằng thuốc lá điện tử chính là sản phẩm giúp cai nghiện thuốc lá thông thường. Tuy nhiên, đây là các thông tin hoàn toàn sai sự thật, tổ chức y tế thế giới đã khẳng định không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh về việc thuốc lá điện tử ít gây hại hơn so với các sản phẩm thuốc lá thông thường. Thuốc lá điện tử không giúp cai nghiện thuốc lá vì hầu hết các sản phẩm này đều chứa một hàm lượng nicotine tin rất lớn mặc dù nhiều sản phẩm quảng cáo rằng thuốc lá điện tử không có chứa nicotine. Nhiều đối tượng hiện nay coi thanh thiếu niên và trẻ em là các khách hàng tiềm năng quan trọng để quảng bá và bán thuốc lá điện tử. Tuy nhiên hành vi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em lại là một trong những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.
Căn cứ theo quy định tại Điều 26 của Nghị định số 117/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế (sau được sửa đổi tại Nghị định số 124/2021/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
– Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các đối tượng có hành vi không treo biển thông báo không bán thuốc lá cho những đối tượng được xác định là người chưa đủ 18 tuổi tại các địa điểm bán buôn và bán lẻ thuốc lá của đại lý;
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Trưng bày quá một bao thuốc lá, hoặc một tút thuốc lá, hoặc một hộp thuốc lá tại đại lý bán lẻ hoặc điểm bán lẻ thuốc lá;
+ Bán hoặc cung cấp thuốc lá cho những đối tượng được xác định là người chưa đủ 18 tuổi;
+ Bán hoặc cung cấp thuốc lá nhưng không ghi nhãn thuốc lá và không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá theo quy định của pháp luật, trong trường hợp bán thuốc lá không ghi nhãn và không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá là thuốc lá nhập lậu trái quy định của pháp luật hoặc thuốc lá giả thì thực hiện xử phạt theo quy định của pháp luật về lĩnh vực thương mại, sản xuất và buôn bán hàng giả, sản xuất và buôn bán hàng cấm, vi phạm quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
– Biện pháp khắc phục hậu quả có thể được áp dụng trong trường hợp này đó là đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với các cơ sở có hành vi liên quan đến các hành vi vi phạm quy định của pháp luật nêu trên trong khoảng thời gian từ 01 tháng đến 03 tháng.
Như vậy có thể nói, hành vi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng theo như phân tích nêu trên. Bên cạnh đó người bán thuốc lá điện tử cho trẻ em còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là đình chỉ hoạt động các cơ sở kinh doanh có liên quan đến hành vi này trong khoảng thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng.
2. Có được bán thuốc lá điện tử cho trẻ em hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 của Luật phòng chống tác hại của thuốc lá năm 2018 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Theo đó thì có thể kể đến một số hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật như sau:
– Hành vi sản xuất hoặc buôn bán, thành viên nhập khẩu hoặc tàng trữ, hành vi vận chuyển các loại thuốc lá được xác định là thuốc lá giả trái quy định của pháp luật, các sản phẩm được thiết kế có hình thức hoặc các sản phẩm được thiết kế có kiểu dáng như bao bì, gói hoặc điếu thuốc lá, có hành vi mua bán hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển các nguyên vật liệu sản xuất thuốc lá, thuốc lá nhập lậu trái quy định của pháp luật;
– Hành vi quảng cáo hoặc khuyến mại thuốc lá, có hành vi tiếp thị thuốc lá trực tiếp đối với người tiêu dùng dưới bất kỳ hình thức nào;
– Tài trợ các tổ chức và cá nhân kinh doanh thuốc lá trái quy định của pháp luật;
– Người chưa đủ 18 tuổi sử dụng hoặc mua bán thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào, trong đó bao gồm cả thuốc lá điện tử;
– Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi để mua bán thuốc lá trái quy định của pháp luật;
– Có hành vi bán hoặc cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi;
– Bán thuốc lá bằng máy bán thuốc lá tự động hoặc hút / bán thuốc lá tại các địa điểm có quy định cấm hoạt động này;
– Sử dụng hình ảnh thuốc lá trên trang bìa của các tạp chí hoặc xuất bản phẩm dành riêng cho những đối tượng được xác định là trẻ em;
– Vận động hoặc ép buộc người khác sử dụng thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào.
Như vậy thì có thể nói, hành vi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em là một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Đây được xác định là hành vi bị cấm theo quy định của luật phòng chống tác hại của thuốc lá. Theo đó thì người nào có hành vi bán thuốc lá điện tử cho trẻ em sẽ bị xử phạt theo như phân tích nêu trên.
3. Xử phạt hành chính với người sử dụng trẻ em để mua thuốc lá điện tử như thế nào?
Tại quy định tại Đièu 29 của Nghị định số 117/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế (sau được sửa đổi tại Nghị định số 124/2021/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm và Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế), có quy định xử phạt hành chính vi phạm quy định khác về phòng, chống tác hại của thuốc lá như sau:
– Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với những đối tượng được xác định là người từ đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi có hành vi sử dụng thuốc lá;
– Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với các đối tượng có hành vi vận động hoặc các một người khác sử dụng thuốc lá, sử dụng những đối tượng được xác định là người chưa đủ 18 tuổi mua thuốc lá trái quy định của pháp luật;
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các đối tượng có hành vi sử dụng hình ảnh của thuốc lá trên các trang bìa của tạp chí hoặc xuất bản phẩm dành riêng cho trẻ em, có hành vi cung cấp thông tin không phù hợp với cơ sở khoa học và không chính xác về thông tin của thuốc lá và tác hại của thuốc lá, không đưa nội dung về phòng chống tác hại của thuốc lá vào kế hoạch hành động hằng năm theo quy định của pháp luật vật không đưa các quy định về cấm hút thuốc lá tại nơi làm việc và quy chế nội bộ của doanh nghiệp hoặc của công ty, không hạn chế hình ảnh diễn viên sử dụng thuốc lá trong các tác phẩm sân khấu hoặc các tác phẩm điện ảnh;
– Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với các đối tượng có hành vi tiếp thị thuốc lá trực tiếp đối với người tiêu dùng dưới mọi hình thức khác nhau, có hành vi để cho các tổ chức hoặc cá nhân tiếp thị thuốc lá trực tiếp đối với người tiêu dùng tại các cơ sở thuộc quyền quản lý và quyền điều hành của mình, chậm nộp các khoản tiền bắt buộc theo quy định của pháp luật, khai sai dẫn đến hiện tượng nộp thiếu khoản tiền cần phải đóng theo quy định của pháp luật, sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ của quỹ phòng chống tác hại thuốc lá không phù hợp với quy định của pháp luật;
– Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện hoạt động tài trợ dưới bất kỳ hình thức nào, gian lận hoặc trốn đóng góp đối với các khoản đóng bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Như vậy có thể nói, người nào có hành vi sử dụng trẻ em để mua thuốc lá điện tử có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng theo như phân tích nêu trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2018;
– Nghị định số 117/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế;
– Nghị định số 124/2021/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm và Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.