Tổ chức, cá nhân để có thể hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành thì phải được cơ quan có thảm quyền cấp giấy phép kinh doanh. Nếu có vi phạm thì pháp luật hiện hành quy định mức phạt cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành là bao nhiêu?
Mục lục bài viết
1. Pháp luật quy định gì về hành vi cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành?
Hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành là một trong những ngành nghề kinh doanh phải đảm bảo điều kiện nhất định, nên cần tuân thủ các quy định về cấp giấy phép kinh doanh. Trên thực tế, vẫn tồn tại trường hợp việc cá nhân, tổ chức khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp khác để hoạt động kinh doanh. Có thể khẳng định rằng, việc sử dụng giấy chứng nhận của doanh nghiệp khác là hành vi bi phạm pháp luật, đã được ghi nhận tại Điều 9
– Người dân được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, hình thức kinh doanh nhưng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nên nghiêm cấm các hoạt động làm phương hại đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc;
– Vì mục đích trục lợi cá nhân hoạc vì một số lý do không chính đáng mà lợi dụng hoạt động du lịch để đưa người từ Việt Nam ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam trái pháp luật;
– Hành động cho dù cố ý hay vô tình mà xâm hại tài nguyên du lịch, môi trường du lịch;
– Ngành kinh doanh du lịch dần trở nên là ngành mũi nhọn của Việt Nam nên tuyệt đối cấm các hành vi thể hiện tư tưởng phân biệt đối xử với khách du lịch, cố tình thu lợi bất hợp pháp từ khách du lịch làm mất đi nét đẹp cảu con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; thực hiện các hành động xấu như tranh giành khách du lịch, nài ép khách du lịch mua hàng hóa, dịch vụ;
– Như đã biết, để cá nhân tổ chức được cấp phép hoạt động thì cần đủ điều kiện được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nên hoạt động kinh doanh du lịch khi không đủ điều kiện kinh doanh, không có giấy phép kinh doanh hoặc không duy trì điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan cũng được xem là vi phạm nghiêm trọng đến lĩnh vực này;
– Cố tình sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành khác hoặc cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh;
– Xét trên thực tế việc hành nghề hướng dẫn du lịch cũng cần đủ điều kiện mới được làm trên thực tế nếu cá nhân nào không đủ điều kiện hành nghề mà vẫn thực hiện thì sẽ bị xử lý theo quy định;
– Hành động để xúc tiến thương mại nhưng lựa chọn quảng cáo không đúng loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; quảng cáo về loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận;
– Bên cạnh đó, cần có hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của luật khác có liên quan.
Như vậy, pháp luật ghi nhận hành vi cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành là hành vi bị nghiêm cấm, không được tổ chức cá nhân nào thực hiện hành vi này.
2. Mức phạt cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành:
Hành vi mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành là một trong những hành vi bị pháp luật quy định là nghiêm cấm thực hiện nên cá nhân, tổ chức nào cố tình vi phạm thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Căn cứ điểm a khoản 13, điểm a khoản 16 Điều 7 Nghị định 45/2019/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về kinh doanh dịch vụ lữ hành với mức phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
– Nếu đối tượng cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh sẽ bị áp dụng nêu trên;
– Không chỉ người cho mượn giấy phép kinh bị xử phạt mà người sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp khác để hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành cũng bị tương tự mức xử phạt nêu trên;
– Trong suốt thời gian cung cấp dịch vụ mà để khách du lịch trốn ở lại nước ngoài hoặc trốn ở lại Việt Nam trái pháp luật;
– Nghiêm cấm hành vi sử dụng người nước ngoài hoạt động hướng dẫn du lịch tại Việt Nam nên nếu phát hiện hành vi này thì mức phạt tối đa lên đến 90 triệu đồng.
– Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Pháp luật quy định rằng cá nhân, tổ chức sẽ buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi quy định tại điểm b khoản 8, điểm b khoản 12, điểm a và điểm b khoản 13, khoản 14 Điều này;
+ Buộc thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành đối với hành vi quy định tại điểm đ khoản 7 Điều này.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 45/2019/NĐ-CP quy định mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền trong lĩnh vực du lịch như sau:
+ Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch đối với cá nhân là 50.000.000 đồng, đối với tổ chức là 100.000.000 đồng;
+ Mức phạt tiền quy định tại các Điều 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17 và 18 Nghị định này là áp dụng đối với cá nhân. Mức phạt tiền quy định tại Điều 7 Nghị định này là áp dụng đối với tổ chức;
+ Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân;
Xét về thẩm quyền phạt tiền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt quy định tại Chương III Nghị định này là thẩm quyền áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; thẩm quyền phạt tiền với tổ chức gấp 02 lần thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân.
Theo nội dung trên thì hành vi hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành mà không có giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành, mượn giấy phép của doanh nghiệp khác có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Không chỉ thế, tổ chức vi phạm còn bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
3. Tổ chức cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành để hoạt động kinh doanh có bị thu hồi giấy phép không?
Hệ quả mà hành vi cho mượn giấy phép kinh doanh để lại vô cùng nghiêm trọng, không chỉ bị xử phạt hành chính mà tổ chức đứng ra cho mượn giấy tờ cũng phải đối diện với hình thức xử phạt nghiêm khác khác, trong đó có thể kể đến bị thu hồi giấy chứng nhận. Căn cứ Điều 36
– Xét trên thực tế phát sinh trường hợp chấm dứt hoạt động kinh doanh dịch vụ lữ hành, giải thể hoặc phá sản;
– Hoạt động của tổ chức về việc kinh doanh dịch vụ lữ hành không đáp ứng một trong các điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 31 của Luật này;
– Vi phạm trong việc là không đổi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này;
– Thực hiện những hành vi gây ảnh hưởng, hoặc làm phương hại đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh;
– Cố tình có hành động vì mục đích trục lợi riêng và lợi dụng hoạt động du lịch để đưa người từ Việt Nam ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam trái pháp luật;
– Còn phải kể đến trường hợp cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh;
– Không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 37 của Luật này, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của khách du lịch;
– Hồ sơ để nộp cho cơ quan có thẩm quyền nhưng lại giả mạo hồ sơ đề nghị cấp, cấp đổi, cấp lại giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Lưu ý rằng:
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này chỉ được đề nghị cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành sau 06 tháng kể từ ngày quyết định thu hồi giấy phép có hiệu lực. Doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành theo quy định tại các điểm d, đ, e, g và h khoản 1 Điều 36 chỉ được đề nghị cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành sau 12 tháng kể từ ngày quyết định thu hồi giấy phép có hiệu lực.
Như vậy, tổ chức cho mượn giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nếu bị phát hiện thì sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.
Văn bản pháp luật được sử dụng:
– Nghị định số 45/2019/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch.