Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Chứng khoán bao gồm các loại: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Thực chất chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt.
Chứng khoán là một phương tiện hàng hóa trừu tượng có thể thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng khoán gồm các loại: chứng khoán cổ phần (ví dụ cổ phiếu phổ thông của một công ty), chứng khoán nợ (như trái phiếu nhà nước, trái phiếu công ty…) và các chứng khoán phái sinh (như các quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn). Chứng chỉ quỹ đuợc định nghĩa trong Luật chứng khoán 2006 ở Việt Nam rất không rõ ràng.
Khoản 4, Điều 12 qui định Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.Trong khi đó, cũng ở điều luật này tại khoản 28: Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. Như vậy, cách giải thích trong luật chứng khoán đã vi phạm lỗi cơ bản về logic hình thức là vòng quanh làm cho người đọc không thể hiểu đuợc những khái niệm mà văn bản này muốn làm rõ. Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng khoán nợ là thứ có tỷ trọng giao dịch áp đảo trên các thị trường chứng khoán. Còn ở những nền kinh tế nơi mà thị trường chứng khoán mới được thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần lại chiếm tỷ trọng giao dịch.
Chứng khoán có 3 đặc tính cơ bản là tính rủi ro, tính thanh khoản và tính sinh lợi. Tính rủi ro của chứng khoán được lý giải bởi nguyên nhân giá trị của chứng khoán có thể thay đổi do kết quả hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý của nhà đầu tư khi tiếp cận và phân tích thông tin không chính xác. Vì vậy, khi sở hữu chứng khoán của tổ chức phát hành nào đó thì rủi ro đã được chuyển từ tổ chức phát hành sang người sở hữu chứng khoán (đặc biệt đối với cổ phiếu). Tính thanh khoản của chứng khoán giúp cho người sở hữu thực hiện được các quyền năng của mình (quyền định đoạt) thông qua việc chuyển chứng khoán thành tiền mặt hoặc tặng, cho, thừa kế. Tính sinh lợi của chứng khoán cho phép người sở hữu nó có thể nhận được những khoản lợi nhuận nhất định. Nhờ có đặc tính này mà chứng khoán, đặc biệt là cổ phiếu rất hấp dẫn nhà đầu tư. Họ tìm kiếm lãi vốn thông qua việc bán phần sở hữu của mình với giá cao hơn lúc mua khi có sự tăng trưởng về giá trị của doanh nghiệp phát hành hoặc họ tìm kiếm cổ tức khi doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận để phân phối cho các chủ sở hữu. Những đặc thù trên của chứng khoán sẽ là cơ sở để tiếp cận nội dung quyền sở hữu chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (TTCK) là kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng. Để tồn tại công ty cổ phần cần vốn. Từ lâu, các nhà doanh nghiệp lớn của thế giới đã khẳng định: không thể triển khai các dự án tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn – Đây là kết quả từ việc huy động vốn thông qua ngân hàng không thể đạt đuợc. Chính vì vậy nhà nuớc cho phép những doanh nghiệp đuợc phép phát hành chứng khoán trong đó công ty cổ phần được phát hành các lọai chứng khóan rất phong phú:
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Theo Luật Chứng khoán 2006, công ty cổ phần được phép phát hành những loại chứng khoán sau:
– Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
– Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Ngoài ra, công ty cổ phần có thể là chủ sở hữu của những loại chứng khoán sau khi đáp ứng những điều kiện nhất định:
– Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
– Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định.
– Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
– Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
– Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định.
Ngoài ra theo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật chứng khoán và luật sửa đổi, bổ sung (NĐ 58/2012/NĐ-CP) công ty cổ phần còn đuợc phát hành cổ phiếu quỹ là cổ phiếu đã được phát hành bởi công ty cổ phần và được mua lại bởi chính tổ chức phát hành đó.
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: [email protected].
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Công ty 100% vốn nước ngoài kinh doanh dịch vụ thuế – chứng khoán
– Phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với công ty đầu tư chứng khoán
– Thành viên Hội đồng quản trị có cần chứng chỉ hành nghề chứng khoán