Một số bất cập về thừa kế theo di chúc theo BLDS 2015. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật. Những người nào không được hưởng thừa kế theo di chúc.
Mục lục bài viết
- 1 1. Di sản dùng vào việc thờ cúng
- 2 2. Về tính hợp pháp của di chúc miệng
- 3 3. Di chúc chung của vợ chồng
- 4 4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
- 5 5. Về việc công bố di chúc
- 6 6. Điểm mới về quy định thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự 2015
- 7 7. Một số bất cập của Bộ luật dân sự về thừa kế theo di chúc
1. Di sản dùng vào việc thờ cúng
Theo quy định tại Điều 626, 645 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để thờ cúng. Tuy nhiên, việc hiểu “một phần tài sản trong khối di sản” được ghi trong điều luật chưa thống nhất nên trên thực tế áp dụng đã có những cách hiểu và vận dụng khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan chức năng. Cụ thể có hai cách hiểu và vận dụng pháp luật một cách khác nhau đối với cùng một nội dung thủ tục công chứng di chúc chúng tôi nêu dưới đây.
Cách hiểu thứ nhất: Một số người cho rằng “một phần tài sản trong khối di sản” được hiểu là một phần tài sản trong một tài sản cụ thể, độc lập với tài sản khác. Do đó, hiện nay có phòng công chứng chưa đồng ý việc công chứng di chúc có nội dung để lại toàn bộ nhà, đất dành vào việc thờ cùng bởi họ cho rằng đối với một ngôi nhà cụ thể thì người lập di chúc chỉ được dành một phần của ngôi nhà đó để thờ cúng, chứ không được để lại toàn bộ toàn bộ ngôi nhà để thờ cúng. Do đó, dẫn đến trường hợp có người có hai hoặc ba (hoặc nhiều hơn) ngôi nhà trên các thửa đất khác nhau nay muốn lập di chúc để lại một ngôi nhà để thờ cúng nhưng không được công chứng di chúc.
Cách hiểu thứ hai: Một số cơ quan khác, trong đó có Phòng Công chứng lại cho rằng cần phải hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là cần phải hiểu một phần tài sản của toàn bộ khối di sản mà người lập di chúc để lại, chứ không thể hiểu là một phần của từng tài sản đơn lẻ. Nếu toàn bộ ngôi nhà gắn liền với đất là một phần tài sản trong khối di sản (còn có nhiều tài sản khác như tài khoản ở ngân hàng, vàng bạc đá quý, nhà đất khác…) thì phải chứng thực di chúc với nội dung nói trên theo yêu cầu của người dân.
Thiết nghĩ, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ vấn đề nêu trên đây theo hướng người lập di chúc có quyền để lại một phần tài sản trong toàn bộ khối di sản để dùng vào việc thờ cúng. Quy định như thế sẽ hạn chế được cách hiểu thứ nhất nêu trên, có nghĩa là không thể hiểu một phần của một loại tài sản đơn lẻ, độc lập. Điều đó sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc, những cách hiểu trái chiều trong việc áp dụng quy định pháp luật đối với một thủ tục hành chính cụ thể, giúp người dân thực hiện được quyền của mình một cách thuận lợi và phù hợp với chính sách pháp luật của nước ta hiện nay.
2. Về tính hợp pháp của di chúc miệng
Khoản 5 Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.” Với quy định này, nếu không được công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn 05 ngày làm việc thì di chúc miệng sẽ mất hiệu lực có thể dẫn đến hậu quả là di chúc không có giá trị pháp lý và tài sản sẽ không được chia theo di chúc này theo đúng tâm tư, nguyện vọng của người để lại di chúc. Tuy nhiên, Điều luật lại không quy định cụ thể nghĩa vụ thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực là do ai sẽ thực hiện là người thừa kế được hưởng di sản hay những người làm chứng về việc để lại di chúc theo quy định của pháp luật. Điều này gây ra cách hiểu khác sau, có ý kiến xác định người hưởng di sản có thể thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc mà đã được những người làm chứng ghi lại theo ý chí, tâm tư, nguyện vọng của người có tài sản để lại. Ý kiến khác lại cho rằng, việc tiến hành công chứng hoặc chứng thực này chỉ có thể do người làm chứng thực hiện (người thừa kế có thể đi cùng người làm chứng). Chính quy định chưa rõ nghĩa vụ công chứng, chứng thực nên việc đánh giá giá trị của di chúc miệng trong thực tiễn sẽ khác nhau. Bên cạnh đó, nếu cho rằng bắt buộc người làm chứng phải thực hiện việc công chứng, chứng thực thì nếu họ không thực hiện dẫn đến di chúc bị vô hiệu thì quyền và lợi ích của những người thừa kế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong trường hợp này, sẽ phát sinh trách nhiệm của người làm chứng điều này là không hợp lý.
Như vậy, cần quy định rõ trách nhiệm công chứng, chứng thực di chúc miệng là của người hưởng di sản. Điều này cũng không ảnh hưởng đến nội dung di chúc vì đây chỉ là thủ tục đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
Luật sư
3. Di chúc chung của vợ chồng
Theo nguyên tắc chung di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế (Khoản 1 Điều 667 “Bộ luật dân sự năm 2015”) nhưng Điều 668 “Bộ luật dân sự năm 2015” quy định di chúc chung có hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết, vậy sẽ xảy ra trường hợp người được chỉ định trong di chúc chết sau khi người vợ hoặc chồng chết nhưng trước khi người sau cùng chết thì người thừa kế sẽ không được hưởng di sản của người vợ hoặc chồng chết trước. Mặt khác nếu người vợ hoặc chồng sống lâu hơn 10 năm kể từ thời điểm người chồng hoặc vợ chết thì thời hiệu về thừa kế đã hết, cho nên theo nguyên tắc chung người thừa kế theo di chúc mất quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản theo di chúc. Mặt khác, quy định hạn chế quyền nhận di sản và quyền sử dụng tài sản của người thừa kế theo di chúc.
Để phù hợp với lý luận và thực tế, cần quy định theo hướng là nếu hai vợ chồng cùng lập di chúc mà một người chết thì phần di chúc của người đó có hiệu lực pháp luật và phần di sản chỉ định trong di chúc thuộc quyền sở hữu chung theo phần của người thừa kế với người vợ hoặc chồng còn sống, nhưng để đảm bảo cho việc khai thác sử dụng tài sản chung của vợ chồng có hiệu quả pháp luật hạn chế không cho người thừa kế theo di chúc yêu cầu chia tài sản chung.
Tuy nhiên, đến Bộ luật dân sự năm 2015 lại không quy định về việc lập di chúc chung của hai vợ chồng và hiệu lực của di chúc khi vợ chồng lại không quy định về vấn đề này nữa, mà chỉ quy định chung là” Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.”
Do đó, có thể hiểu là tài sản thừa kế theo di chúc chung của hai vợ chồng được phân chia thừa kế theo di chúc có hiệu lực từ thời điểm thừa kế sẽ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau khi mà chia di sản thừa kế
4. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là cha, mẹ, vợ, chồng nếu họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản thì sẽ được 2/3 của một suất thừa kế nếu di sản chia theo pháp luật. Quy định này dựa trên nhiều cơ sở, trong đó quan hệ huyết thống và hôn nhân và gia đình là căn cứ quan trọng, trên cơ sở đó buộc người để lại di sản có nghĩa vụ chăm sóc về vật chất đối với người than thích trên. Ngược lại, quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 đã hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc. Trong trường hợp này người lập di chúc không để lại cho những người trên hưởng di sản phải có lý do chính đáng như họ là những người có tài sản đủ sinh sống. Vì vậy, trường hợp trên cần xem xét khả năng kinh tế của cha, mẹ, vợ, chồng, nếu họ không có khả năng lao động và không có điều kiện kinh tế thì pháp luật cho phép họ hưởng 1 phần di sản là hợp lí.
5. Về việc công bố di chúc
Theo quy định tại khoản 5 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng”. Như vậy, trường hợp người dân tộc thiểu số để lại di chúc thì việc công chứng cũng phải thực hiện mà không cần dịch ra tiếng Việt. Quy định này gây khó khăn cho thủ tục công chứng, chứng thực.
Để khắc phục bất cập về việc công bố di chúc được quy định tại khoản 5 Điều 672, cần bổ sung cụm từ “tiếng dân tộc thiểu số” vào phía sau cụm từ “tiếng nước ngoài”.
6. Điểm mới về quy định thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự 2015
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 quy định về thừa kế theo di chúc quy định một số nội dung mới so với “Bộ luật dân sự 2015” như sau:
Thứ nhất, về nội dung của di chúc
Trong trường hợp lập di chúc, vì một số lý do mà sau khi di chúc được lập và viết thành văn bản mà phải tẩy xóa, theo theo khoản 3 Điều 631 Bộ luật dân sự 2015, pháp luật cho phép di chúc đã lập có thể tẩy, xóa, tuy nhiên, việc tẩy xóa, sửa chữa nội dung của di chúc chỉ được thực hiện khi người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa
Thứ hai: về những người làm chứng cho việc lập di chúc
Cũng như “Bộ luật dân sự 2015”, Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chcus; người chưa đủ 18 tuổi, ngừi không có năng lực hành vi dân sự không được làm chứng cho việc lập di chúc.Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung them một đối tượng không được làm chứng cho việc di chúc đó là người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đây là đối tượng mà “Bộ luật dân sự 2015” đã bỏ sót, tuy nhiên trên thực tế, vẫn xảy ra những tranh chấp dân sự phát sinh từ việc người có khó khan trong nhận thức, hành vi đứng ra làm chứng cho việc lập di chúc, những người này xuất phát từ nhược điểm về thể chất, tinh thần, có khó khăn nhận thức của mình, vì vậy, nên họ cũng sẽ gặp khó khan trong quá trình làm chứng cho di chúc. Bộ luật Dân sự 2015 đã nắm bắt và quy định đây cũng là một trong những đối tượng không được làm chứng cho di chúc; từ đó sẽ góp phần hạn chế được tranh chấp phát sinh từ di chúc.
Thứ ba: Xử lý trường hợp di chúc bị thất lạc, hư hại
Theo quy định của “Bộ luật dân sự 2015” và Bộ luật Dân sự 2015 thì nếu thời điểm mở thừa kế mà bản di chúc bị thất lạc thì sẽ chia theo pháp luật; nếu di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định thêm một vấn đề, đó là trong thời hiệu yêu cầu chia dí ản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu. Quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chỉ của người để lại di sản thừa kế; thể hiện được bản chất của di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Thứ tư: bổ sung điều kiện đối với người được di tặng
Di tặng được hiểu là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. “Bộ luật dân sự 2015” cũng có quy định cụ thể về việc di tặng tại Điều 671; tuy nhiên, chưa đề cập đến điều kiện đến người được di tặng. Khoản 2 Điều 646 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định cụ thể về điều kiện đối với người được di tặng như sau:
+ Nếu người được di tặng là cá nhân: thì phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
+ Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trên đây là một số điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 về vấn đề di chúc và thừa kế theo di chúc.
7. Một số bất cập của Bộ luật dân sự về thừa kế theo di chúc
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo nội dung của bản di chúc mà người đó đã lập trước khi chết. Vấn đề thừa kế theo di chúc đã được quy định cụ thể từ Điều 624 đến Điều 648 trong Bộ Luật Dân sự năm 2015. Sau đây là một số bất cập của Bộ Luật Dân sự 2015 về thừa kế theo di chúc:
Về chủ thể lập di chúc: Điều 625 Bộ Luật Dân sự 2015 về người lập di chúc quy định:
“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”
Quy định này là căn cứ để xác định chủ thể lập di chúc, chủ thể lập di chúc là người định đoạt tài sản của mình thông qua hành vi của chính mình. Vì vậy, điều kiện về độ tuổi và năng lực chủ thể của người lập di chúc là những điều kiện quan trọng, quyết định trong việc xác định giá trị pháp lí của di chúc.
Tuy nhiên, Điều 625 vẫn còn bất cập. Khoản 1 của Điều này quy định chưa bao quát cũng như chưa có sự thống nhất với những quy định về chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự nói chung và chủ thể trong giao dịch dân sự nói riêng. Điều 625 không quy định rõ về trường hợp người thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được lập di chúc hay không? Hay khi lập di chúc có cần phải được sự đồng ý của người đại diện hay không?
Còn khoản 2 của điều này, không những chưa chặt chẽ mà lại còn thiếu nội dung quan trọng là quy định về năng lực hành vi dân sự của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Mặt khác, trong quy định về việc phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ về việc những người này lập di chúc cón nhiều điểm cần xem xét như là thời điểm, hình thức…của sự đồng ý này cụ thể là như thế nào?
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
Về di chúc miệng: di chúc miệng được quy định tại Điều 629 và khoản 5 Điều 630 như sau:
“Điều 629. Di chúc miệng
1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Điều 630. Di chúc hợp pháp
[…]5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Theo khoản 5 Điều 630 thì di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ, tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện được quy định này rất khó. Khi trong gia đình có người đang hấp hối thường sẽ không còn ai bình tĩnh hay không ai suy nghĩ được vấn đề nay, mặt khác, trong thời điểm này, thường sẽ chỉ có người trong gia đình, họ hàng thân thích có mặt. Có thể hiểu việc quy định như vậy của pháp luật là nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan, rõ ràng của việc lập di chúc miệng nhưng lại khá khó khăn trong việc áp dụng vào thực tế.
Về điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp: tại khoản 1 Điều 630:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.”
Theo điểm a của điều khoản trên thì người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép nhưng căn cứ nào để xác định được người lập di chúc tại thời điểm đó là minh mẫn, sáng suốt? Ngoài ra, cũng rất khó để xác định được người lập di chúc có bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép hay không. Vì nội dung của điều khoản này không cụ thể nên việc áp dụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bên cạnh đó, nếu có tranh chấp xảy ra cũng sẽ rất khó để giải quyết được thỏa đáng.
Có thể thấy, qua phân tích, bất cập trong các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 về thừa kế theo di chúc còn khá nhiều, gây khó khăn trong thực tiễn thực hiện, áp dụng luật. Việc soạn thảo các quy định sao cho phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam đang là một bài toán gian nan cho các nhà làm luật.