Căn cứ theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018, Bộ GD&ĐT thực hiện lộ trình áp dụng chương trình mới như sau:. Các môn học và số tiết học tương ứng của từng môn học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cho học sinh lớp 4 từ năm học 2023-2024 như sau:
Mục lục bài viết
1. Môn học, số tiết học của học sinh lớp 4 từ năm học 2023 – 2024:
Chương trình giáo dục phổ thông 2016 | Chương trình giáo dục phổ thông 2018 | ||
Môn học | Số tiết | Môn học | Số tiết |
Tiếng Việt | 280 | Tiếng Việt | 245 |
Toán | 175 | Toán | 175 |
Đạo đức | 35 | Ngoại ngữ 1 | 140 |
Khoa học | 70 | Đạo đức | 35 |
Lịch sử và Địa lý | 70 | Lịch sử và Địa lý | 70 |
Âm nhạc | 35 | Tin học và Công nghệ | 70 |
Kỹ thuật | 35 | Giáo dục thể chất | 70 |
Thể dục | 70 | Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật) | 105 |
Tự chọn (không bắt buộc) |
| Hoạt động giáo dục bắt buộc | 105 |
Giáo dục tập thể | 2/tuần | Môn học tự chọn |
|
Giáo dục ngoài giờ lên lớp | 4/tháng | Tiếng dân tộc thiểu số | 70
|
2. Chương trình lớp 4 có thay đổi về môn học như thế nào?
Trong Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, mục 1 phần IV quy định rõ ràng về nội dung và chương trình học của học sinh ở các lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và lớp 5.
Theo quy định, ở lớp 1, lớp 2 và lớp 3, học sinh sẽ được tiếp cận với nội dung giáo dục khoa học xã hội thông qua môn học Tự nhiên và Xã hội. Môn học này giúp học sinh hiểu về các khái niệm cơ bản về tự nhiên và xã hội, như cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cấu trúc xã hội, và các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta.
Tuy nhiên, khi học sinh lên lớp 4 và lớp 5, môn Tự nhiên và Xã hội sẽ được chia thành hai môn học độc lập là môn Lịch sử và Địa lí, Khoa học. Điều này nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức và kỹ năng trong từng lĩnh vực cụ thể, không còn phụ thuộc vào môn học tổng quát như trước đây.
Vì vậy, khi học sinh bước vào lớp 4, họ sẽ không còn học môn bắt buộc là “tự nhiên và xã hội” nữa. Thay vào đó, học sinh sẽ học hai môn bắt buộc khác là môn “lịch sử và địa lý” và môn “khoa học”. Điều này giúp học sinh tiếp tục phát triển kiến thức và kỹ năng trong các lĩnh vực này một cách chi tiết và sâu sắc hơn.
Ngoài ra, chương trình giáo dục lớp 4 còn bao gồm một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc khác, như Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Ngoại ngữ 1, Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), và Hoạt động trải nghiệm. Đây là những môn học và hoạt động quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho học sinh.
Ngoài những môn học bắt buộc, học sinh còn có cơ hội lựa chọn học thêm một môn học tự chọn, đó là tiếng dân tộc thiểu số. Đây là một cơ hội để học sinh tìm hiểu và bảo tồn văn hóa của các dân tộc thiểu số trong xã hội.
Để đảm bảo việc giảng dạy và học tập hiệu quả, thời lượng giáo dục cũng được quy định rõ ràng. Theo quy định, thực hiện dạy học 02 buổi/ngày, mỗi ngày không quá 07 tiết học, và mỗi tiết học có thời lượng là 35 phút. Điều này giúp học sinh có đủ thời gian tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất và cân nhắc giữa việc học và nghỉ ngơi.
Tổng kết lại, chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 quy định rõ ràng về nội dung giảng dạy và chương trình học ở các lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và lớp 5. Việc chia môn học Tự nhiên và Xã hội thành hai môn riêng biệt là môn Lịch sử và Địa lí, Khoa học từ lớp 4 trở đi giúp học sinh phát triển kiến thức và kỹ năng một cách chi tiết và sâu sắc hơn. Ngoài ra, chương trình còn đảm bảo sự đa dạng và phong phú trong việc học, từ các môn học bắt buộc đến môn học tự chọn, đồng thời đảm bảo thời lượng giáo dục hợp lý giữa việc học và nghỉ ngơi.
3. Chương trình giáo dục phổ thông mới bậc Tiểu học và các điểm đổi mới
– Lớp 1: Từ năm học 2020 – 2021;
– Lớp 2: Từ năm học 2021 – 2022;
– Lớp 3: Từ năm học 2022 – 2023;
– Lớp 4: Từ năm học 2023 – 2024;
– Lớp 5: Từ năm học 2024 – 2025
Các điểm mới của chương trình giáo dục phổ thông như sau:
Khắc phục sự chồng chéo giữa các môn học: Trong chương trình mới, sẽ thực hiện lồng ghép những nội dung liên quan với nhau của một số môn học trong chương trình hiện hành, nhằm tạo thành môn học tích hợp. Điều này giúp giảm số lượng môn học và tránh chồng chéo nội dung giáo dục. Việc tinh giản môn học sẽ giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả hơn.
Ưu tiên phát triển phẩm chất và năng lực: Chương trình mới tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những chủ đề phù hợp với sở thích, phẩm chất tính cách và năng lực của bản thân. Việc này giúp học sinh phát triển toàn diện và tối đa hóa tiềm năng cá nhân. Học sinh sẽ có cơ hội tự do khám phá và phát triển theo đúng sở thích và khả năng của mình.
Chú trọng trải nghiệm sáng tạo: Chương trình giáo dục mới tăng cường chú trọng các hoạt động thực tiễn gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống hàng ngày. Học sinh sẽ được tham gia vào những hoạt động thực tế, giúp họ trải nghiệm và không ngừng sáng tạo. Điều này giúp học sinh nắm vững kiến thức và kỹ năng thông qua việc áp dụng vào thực tế.
Phân hóa dần ở cấp trên: Khác với chương trình trước đây, chương trình phổ thông mới được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (bao gồm Tiểu học và THCS) và Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp THPT). Lớp càng cao dần, sẽ có sự phân hóa học sinh theo nhu cầu và định hướng sau phổ thông. Điều này giúp học sinh phát triển theo hướng mà họ mong muốn và phù hợp với sự nghiệp tương lai.
Thực nghiệm cái mới và cái khó: Chương trình giáo dục mới đặc biệt chú trọng thực nghiệm những hình thức hoạt động giáo dục, dạy học mới. Học sinh sẽ được tham gia vào các hoạt động trải nghiệm sáng tạo và đổi mới, từ đó khám phá những kiến thức mới và đối mặt với những thách thức khó khăn. Điều này giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo và trở thành những người học suốt đời.
4. Một số thách thức với ngành giáo dục trong năm học mới:
Thiếu giáo viên:
Cả nước hiện có 1,23 triệu giáo viên, thiếu 118.200 người, trong đó, giáo viên mầm non thiếu gần 52.000.
Nguyên nhân chính là số trẻ mầm non và học sinh tăng, cùng với chương trình học mới.
Năm học qua có hơn 10.000 giáo viên nghỉ hưu và gần 9.300 người bỏ việc.
Thiếu giáo viên nhưng không có nguồn tuyển dụng đủ.
Năm học 2022-2023, chỉ tuyển được hơn 17.000 người trong số 27.850 người cần bổ sung.
Rối ren dạy tích hợp:
Chương trình mới cho phép học sinh THCS học môn tích hợp thay vì các môn riêng lẻ.
Hiện vẫn thiếu giáo viên để dạy môn tích hợp.
Bất cập khi ban hành sách giáo khoa:
Áp dụng chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”.
Hiện có 6 nhà xuất bản và ba công ty cổ phần tham gia biên soạn, phát hành sách.
Năm học này, 9 khối lớp học theo sách mới và tất cả khối lớp sẽ học theo sách mới từ năm sau.
Cần xem xét kỹ vì quay lại dùng một bộ sách sẽ khó đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, gây ra sự cạnh tranh bất bình đẳng và tốn kém. Ước tính xã hội đã chi ra hàng chục nghìn tỷ đồng cho việc này.
Phương án thi tốt nghiệp THPT 2025 dự kiến gồm 6 môn thi: 4 môn bắt buộc (Toán, Văn, Ngoại ngữ và Sử) và 2 môn lựa chọn (Lý, Hóa, Sinh, Địa, Giáo dục kinh tế và pháp luật, Tin học, Công nghệ).
Hiện các Sở Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến giáo viên về việc đưa Sử thành môn thi bắt buộc hay không. Một số giáo viên cho rằng Sử nên là môn thi bắt buộc để đảm bảo học sinh không bỏ bê môn học này. Tuy nhiên, nhiều người khác cho rằng chỉ cần thi 3 môn bắt buộc là đủ, giảm áp lực học hành và tiết kiệm chi phí cho xã hội.
Việc đưa Sử là môn thi bắt buộc có thể tạo mất cân bằng trong các môn thi tốt nghiệp và thiệt thòi cho học sinh có định hướng theo khoa học tự nhiên. Việc thay đổi kỳ thi tốt nghiệp THPT cũng đồng nghĩa với việc tuyển sinh đại học cần phải thay đổi. Giáo viên và học sinh đang mong ngóng phương án cuối cùng để có kế hoạch ôn tập sớm.
Về học phí đại học, nhiều trường đã đưa ra mức tăng mạnh dựa trên nghị định 81 về học phí công lập. Trần học phí với các trường chưa tự chủ là 1,35-2,76 triệu đồng một tháng, gấp đôi so với mức cũ (0,98-1,43 triệu đồng). Các trường đã tự chủ, tùy mức độ, được thu tối đa gấp 2-2,5 lần (2,7-6,9 triệu đồng). Các trường đạt kiểm định chất lượng được tự xác định học phí.
Học phí đại học vẫn gây áp lực cho nhiều gia đình sau hai năm Covid-19. Tuy nhiên, đây là nguồn thu chủ chốt của nhiều trường, chiếm tới 50-90% tổng nguồn thu. Nếu không tăng học phí, các trường sẽ khó đảm bảo chi thường xuyên, đầu tư cho nhân lực, nâng cao cơ sở vật chất và chất lượng giảng dạy, nghiên cứu.