Kết thúc phiên tòa là phần nghị án và tuyên án, Hội đồng xét xử sẽ tiến hành nghị án tại phòng nghị án với sự có mặt riêng của thành viên hội đồng và quá trình nghị án sẽ được lập thành biên bản.
Mục lục bài viết
1. Mẫu biên bản nghị án là gì?
Hiện nay, trong pháp luật không có quy định cụ thể về khái nghiệm nghị án, tuy nhiên căn cứ tại những phiên tòa thực tế thì có thể hiểu Nghị án là việc hội đồng xét xử thảo luận và quyết định các vấn đề của vụ án.
Mẫu 02c – Mẫu biên bản nghị án là mẫu biên bản ghi chép lại những nội dung, ý kiến của thành viên Hội đồng xét xử giải quyết trong quá trình thảo luận dựa trên các căn cứ chứng minh, chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác để đưa ra kết luận kết thúc phiên Tòa xét xử.
Mẫu 02c – Mẫu biên bản nghị án là mẫu biên bản được chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc phân công một thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản về các vấn đề, ý kiến trong phòng thảo luận đưa ra các căn cứ chứng minh tội danh, từ những căn cư đó xét theo tính hợp lệ của pháp luật để áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội.
2. Mẫu 02c – Mẫu biên bản nghị án:
Nội dung cơ bản của mẫu 02c – Biên bản nghị án như sau:
Mẫu số 02c: Dùng cho Hội đồng xét xử phúc thẩm
(Ban hành kèm theo
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
____________________
…….., ngày……tháng……năm……
TOÀ ÁN……
___________________
Số: . . . . . ./. . . . . . /HSPT-Q
BIÊN BẢN NGHỊ ÁN
TOÀ…….
Với Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: (1)
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông (Bà) …………
Các Thẩm phán: Ông (Bà) ……….
Ông (Bà) ………….
Căn cứ vào các điều 199, 222, 247 và khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Vào hồi ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm ….. , tại phòng nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành nghị án đối với vụ án …………
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà; Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề phải giải quyết trong vụ án và quyết định như sau:(2) ………
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
3. Hướng dẫn soạn thảo Mẫu 02c – Mẫu biên bản nghị án:
(1) Nếu Hội đồng xét xử có thêm hai Hội thẩm thì ghi đầy đủ họ tên, nghề nghiệp và nơi công tác của họ.
(2) Trong trường hợp chỉ có quyết định quy định tại một trong các điểm a, c hoặc d khoản 2 Điều 248 của BLTTHS thì chỉ cần ghi quy định tại điểm tương ứng đó và kết quả biểu quyết (ví dụ: không chấp nhận kháng cáo (kháng nghị) và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Kết quả biểu quyết: đồng ý 3/3; không đồng ý: không). Trong trường hợp có hai hoặc ba quyết định quy định tại các điểm a, c và d khoản 2 Điều 248 của BLTTHS thì ghi quy định từng điểm tương ứng đó và kết quả biểu quyết về từng điểm. Trong trường hợp quyết định theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 248 của BLTTHS thì cần ghi cụ thể những quyết định sửa bản án sơ thẩm theo cách ghi được hướng dẫn tại các mục (3), (4), (5) và (6) bản hướng dẫn sử dụng mẫu số 05d ban hành kèm theo
4. Một số quy định liên quan đến giai đoạn nghị án:
Căn cứ theo quy định tại Điều 326 về Nghị án quy định tại
– Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng nghị án.
Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng vấn đề của vụ án phải được giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định…Người có ý kiến thiểu sổ có quyền trình bày ý kiên của mình băng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
– Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa,trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, ngươi bào chữa, người tham gia tố tụng khác.
– Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm:
+ Vụ án có thuộc trường họp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
+ Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
…
– Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm tuyên án.
– Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các vấn đề:
+ Ra bản án và tuyên án;
…”
Theo đó,
Thẩm quyền nghị án và giải quyết quyết các vấn đề khi nghị án gồm:
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Điều luật quy định chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Hội đồng xét xử tiến hành việc nghị án trong phòng riêng và không ai được tiếp xúc với Hội đồng xét xử, không được vào phòng nghị án cũng như có những tác động khác lên quá trình nghị án.
Khi nghị án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một; cụ thể là các vấn đề chính sau:
– Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
– Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
– Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;
– Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đổi với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;
– Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không;
– Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa;
– Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiềm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tô, xét xử;
– Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.
Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc nghị án, nêu các vấn đề cần giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết. Điều luật chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau cùng chứ không phải là phát biểu ý kiến sau cùng. Cho nên, trong khi nghị án thứ tự phát biểu, thảo luận là không bắt buộc. Trọng trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm, thì khi phát biểu (hoặc khi biểu quyết) các Hội thẩm phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết) sau. Trong trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm, thì các hội thẩm phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, đến Thẩm phán không phải là chủ tọa phiên tòa và sau cùng là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết).
Thủ tục sau khi biểu quyết:
Thành viên của Hội đồng xét xử có ý kiến thiểu số thì có quyền (không phải là nghĩa vụ) trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và được đưa vào hồ sơ vụ án. Trong biên bản nghị án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên Hội đồng xét xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
Lập biên bản khi nghị án:
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm tuyên án.
Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định và thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về các quyết định tại điểm c và điểm d khoản này. Các quyết định Hội đồng xét xử có thể ra: Bản án và tuyên án; Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án.
Như vậy, nghị án là một trong những giai đoạn tiến hành tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm, khi kết thúc các giai đoạn quy định trong mục tranh tụng tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử chuyển qua giai đoạn nghị án để thảo luận về các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án, đưa ra quyết định giải quyết vụ án và ra quyết định Bản án trong trường hợp cần thiết thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.