Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Hình sự hiện hành quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,.... Khi tiến hành giao nhận chứng cứ của người bào chữa thì cần lập biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa.
Mục lục bài viết
1. Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa là gì?
Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa là mẫu biên bản được lập ra khi tiến hành giao nhận chứng cứ của người bào chữa. Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa nêu rõ các thông tin về người bào chữa, chứng cứ giao nhận.,. . Nội dung của biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa bao gồm những nội dung về người bào chữa, người nhận chứng cứ của người bào chữa, địa điểm nhận….
Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa được dùng để ghi chép lại việc giao, nhận chứng cứ của người bào chữa. Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa là cơ sở để cung cấp tài liệu, chứng cứ mà người bào chữa có được có liên quan đến vụ án gửi đến cơ quan có thẩm quyền nhằm thêm thông tin trong quá trình điều tra của cơ quan điều tra.
2. Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ của người bào chữa:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————-
BIÊN BẢN GIAO, NHẬN
CHỨNG CỨ, TÀI LIỆU, ĐỒ VẬT
Hồi ……. giờ ………. ngày……… tháng ……… năm ………. tại ……..(1)
Chúng tôi gồm: (2)
Ông/bà: …….
thuộc Cơ quan ……..
Ông/bà: ……….
Ông/bà: ……….
là người bào chữa cho: ……..(3)
Căn cứ Điều 81 và Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự, ông/bà: …………..(2) …giao cho cơ quan tiến hành tố tụng chứng cứ, tài liệu, đồ vật gồm:(4)
Ý kiến của người giao nộp chứng cứ, tài liệu, đồ vật:…(5 )(5): Điền ý kiến của. người giao nộp chứng cứ
Việc giao, nhận kết thúc hồi……………..giờ………………… ngày……….. tháng ………. năm…
Biên bản này đã đọc cho những người có tên trên cùng nghe, công nhận đúng và cùng ký tên xác nhận dưới đây.
Biên bản này lập thành hai bản, một bản giao cho người giao, một bản đưa vào hồ sơ vụ án/vụ việc.
NGƯỜI GIAO. NGƯỜI NHẬN
3. Hướng dẫn soạn thảo:
(1): Điền ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản
(2): Điền tên, cơ quan của những người bào chữa
(3): Điền tên của người được bào chữa
(4): Điền chứng cứ, tài liệu, đồ vật giao
4. Quy định về giao nộp tài liệu chứng cứ:
– Cơ sở pháp lý:
+
4.1. Việc thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa:
Theo Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về như sau:
– Người bào chữa thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 88 của Bộ luật này.
– Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
– Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập.
Theo đó, tài liệu chứng cứ, đồ vật có liên quan đến vụ án và có liên quan đến việc bào chữa được nộp đến cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời, đầy đủ, xác thực để những tài liệu, chứng cứ, đồ vật có liên quan đó được đưa vào hồ sơ của vụ án. Theo đó, cơ quan nhận tài liệu, chứng cứ, đồ vật có liên quan đến vụ án phải lập thành biên bản giao nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật của người bào chữa để làm căn cứ về việc đã giao nhận về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật của người bào chữa.
4.2. Thu thập chứng cứ:
Được quy định tại Điều 88 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 như sau:
– Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
– Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
– Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
– Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
– Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
Theo đó, việc thu thập chứng cứ là vô cùng quan trọng trong quá trình điều tra, xác minh sự thật khách quan của vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng có thể thu thập chứng cứ tại hiện trường hoặc từ nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến vụ án hoặc yêu cầu người bào chữa, người làm chứng, những người liên quan cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án hình sự, bên cạnh đó những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
4.3. Khái niệm người bào chữa:
Tại Điều 72 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau
– Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
– Người bào chữa có thể là:
+ Luật sư;
+ Người đại diện của người bị buộc tội;
+ Bào chữa viên nhân dân;
+ Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
– Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
– Để đảm bảo trong quá trình tham gia vụ án được tiến hành một cách công khai, công bằng, nghiêm minh thì Bộ luật tố tụng hình sự cũng đã có những quy định về những người sau không được bào chữa như sau:
+ Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
+ Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
– Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.
Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
Như vậy, người bào chữa là một trong những chủ thể tham gia tố tụng được chỉ định hoặc được người phạm tội nhờ bào chữa. Bào chữa viên nhân dân phải là những người có đầy đủ những điều kiện, yêu cầu theo quy định của pháp luật như: phả là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
4.4 về giao nộp tài liệu, chứng cứ theo đó giao nộp tài liệu, chứng cứ:
– Trong Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định như sau (Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
– Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.
– Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ.
– Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
– Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
– Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
– Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải
Việc giao nộp tài liệu, chứng cứ, đồ vật trong tố tụng dân sự cũng tương tự việc giao nộp tài liệu, chứng cứ, đồ vật liên quan trong tố tụng hình sự, theo đó, đương sự trong vụ án dân sự có quyền giao nộp tài liệu, chứ cứ có liên quan đến vụ án hoặc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ nếu chứng cứ, tài liệu mà đương sự nộp chưa đầy đủ để phục vụ trong quá trình điều tra. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ việc dân sự.