Mặt khách thể của tội phạm? Phân tích và cho ví dụ về khách thể của tội phạm?
Một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm có khách thể của tội phạm. Đây được hiểu chính là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ mà bị tội phạm xâm hại đến. Vậy khách thể của tội phạm bao gồm những loại nào và cách xác định như thế nào.
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Mặt khách thể của tội phạm?
Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ.
Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm xâm hại. Những quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong BLHS như độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,… chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, các quyền nhân thân, quyền sở hữu.
Khách thể của tội phạm được hiểu là nhóm các quan hệ xã hội cùng hoặc gần tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm các tội phạm xâm hại.
Như vậy, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quan hệ đó là: quan hệ về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. . . những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, không phải mọi hành vi gây thiệt hại đến các quan hệ đó đều là hành vi phạm tội. Nội dung của hành vi gây thiệt hại phải đến mức “nguy hiểm đáng kể” mới bị coi là tội phạm.
2. Mặt khách thể của tội phạm trong tiếng anh là gì?
– Khách thể của tội phạm trong tiếng anh là The objective side of crime
– Định nghĩa của mặt khách thể của tội phạm trong tiếng anh được hiểu là:
The object of crime is the social relationship protected by the criminal law and harmed by the criminal. According to the Vietnamese criminal law system, these relations are: independence, sovereignty, unity, territorial integrity of the Fatherland, political regime, culture, national defense, security, social order and safety, legitimate rights and interests of the organization, human rights and other legitimate rights and interests of citizens. . . Other areas of the socialist legal order. However, not all acts that cause damage to those relationships are criminal acts. The content of an act that causes damage must be “of considerable danger” to be considered a crime.
– Những từ vựng tiếng anh tiêu biểu liên quan trong cùng lĩnh vực hình sự như:
- Police officer /pəˈliːs ˈɒf.ɪ.səʳ/: cảnh sát
- Gun /gʌn/: khẩu súng
- Holster /ˈhəʊl.stəʳ/: bao súng ngắn
- Handcuffs /ˈhænd.kʌfs/: còng tay
- Badge /bædʒ/: phù hiệu, quân hàm
- Nightstick /ˈnaɪt.stɪk/: gậy tuần đêm
- Judge /dʒʌdʒ/: thẩm phán
- Robes /rəʊbs/: áo choàng (của luật sư)
- Gavel /ˈgæv.əl/: cái búa
- Witness /ˈwɪt.nəs/: người làm chứng
- Jail /dʒeɪl/: phòng giam
- Detective /dɪˈtek.tɪv/: thám tử
- Defense attorney /dɪˈfents əˈtɜː.ni/:
luật sư bào chữa - Defendant /dɪˈfen.dənt/: bị cáo
- Fingerprint /ˈfɪŋ.gə.prɪnts/: dấu vân tay
3. Phân tích và cho ví dụ về khách thể của tội phạm?
Thứ nhất, về các loại khách thể của tội phạm
Khoa học Luật hình sự dựa trên mức độ khái quát của các quan hệ xã hội đã chia khách thể của tội phạm thành ba loại: Khách thể chung của tội phạm, Khách thể loại của tội phạm, Khách thể trực tiếp của tội phạm. Cụ thể:
Một là, khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Theo Luật hình sự Việt Nam, khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một trong những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8. Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một quốc gia.
Hai là, khách thể loại của tội phạm
Tội phạm trên thực tế dù rất đa dạng về các mặt chủ thể, chủ quan, khách quan nhưng nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội có cùng tính chất sẽ được xếp chung vào một chương. Thông qua việc xem xét các nhóm khách thể nhất định, chúng ta có thể đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể khi trực tiếp xâm hại đến một trong số các khách thể của nhóm.
Việc sắp xếp các chương trong phần các tội phạm dựa theo khách thể loại là hết sức hợp lý và khoa học. Nếu chúng ta sắp xếp theo các cơ sở khác (chủ quan, chủ thể…) thì sẽ dẫn đến tình trạng nhiều tội phạm có bản chất rất khác nhau lại nằm cùng một chương. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm và việc xử lý chúng.
Các tội phạm được quy định trong cùng một chương phần các tội phạm (có cùng khách thể loại) bao giờ cũng xâm hại đến khách thể loại của chúng. Tuy nhiên, từng tội phạm trong một chương đó không phải luôn xâm hại cùng khách thể trực tiếp. Điều đó có nghĩa là mỗi tội phạm có khách thể trực tiếp riêng của nó.
Ba là, khách thể trực tiếp của tội phạm
Thứ hai, ví dụ nhận biết khách thể của tội phạm
Ví dụ 1: A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại là quyền sở hữu của công dân.
Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Ví dụ 2: Hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu XHCN vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng rõ ràng, thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải Đtội trộm cắp tài sản.
Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là: khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào (lỗi)…
Chẳng hạn, hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khoẻ. Tuy nhiên, quyền sở hữu đúng là khách thể trực tiếp của hành vi “cướp giật tài sản”, sức khoẻ không là khách thể trực tiếp của hành vi này.
Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội mà việc xem xét sự gây thiệt hại đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường hợp phạm tội.
Ví dụ 3: Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.
Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể.