Các chuỗi thức ăn sẽ tạo ra nhiều mắt xích chung góp phần tạo thành lưới thức ăn trong hệ sinh thái. Vậy lưới thức ăn là gì? Vai trò, phân loại và ý nghĩa lưới thức ăn? Cùng bài viết này tìm hiểu nhé:
Mục lục bài viết
1. Lưới thức ăn là gì?
Trong hệ sinh thái, tồn tại hàng loạt các loài sinh vật có mối quan hệ mật thiết về dinh dưỡng với nhau tại thành từng chuỗi thức ăn. Mỗi loại sinh vật trong chuỗi thức ăn là sinh vật tiêu thụ ở mắt xích trước và hơn nữa là sinh vật ăn ở mắt xích cuối cùng.
Ví dụ:
– Trong một hệ sinh thái đồng cỏ: lúa là nguồn cung cấp thức ăn của chuột, chuột lại là thức ăn của rắn, …
– Trong một hệ sinh thái biển, tảo và rong là nguồn cung cấp thức ăn cho các loài sinh vật nhỏ như tôm, cua và cá nhỏ. Những con cá lớn hơn sẽ ăn những sinh vật nhỏ đó, và đến những con cá lớn hơn nữa như cá mập và cá ngừ sẽ săn mồi ăn các loài cá nhỏ hơn.
Nhưng trong tự nhiên cũng tồn tại rất nhiều chuỗi thức ăn như thế. Một loài sinh vật trong một chuỗi thức ăn có thể tham gia vào nhiều chuỗi thức ăn khác khau. Nhiều chuỗi thức ăn có chung một sinh vật như vậy liên kết với nhau gọi là các mắt xích tương đồng. Những chuỗi thức ăn liên kết với nhau bởi các mắ xích tương đồng tạo thành lưới thức ăn.
Như vậy, lưới thức ăn được hiểu là một sơ đồ liên kết một cách chi tiết về mối quan hệ tổng thể về thức ăn giữa những loài sinh vật cụ thể trong một môi trường cụ thể nào đó. Sơ đồ này cho thấy các mối quan hệ kiếm ăn phức tạp, “ai ăn ai” đối với một hệ sinh thái cụ thể.
Ví dụ:
Sự đa dạng của quần xã sinh vật trong môi trường sống càng cao, lưới thức ăn càng phức tạp. Mỗi loài sinh vật trong một hệ sinh thái đều có thể đóng nhiều vai trò khác nhau trong một lưới thức ăn, một sinh vật có thể vừa đóng vai trò như nguồn thực phẩm cho các loài động vật ăn thịt, vừa trở thành những loài ăn thực vật hoặc loài phân giải tạp chất.
Mỗi loài sinh vật đều có mối quan hệ phụ thuộc khác nhau với các loài sinh vật khác trong một lưới thức ăn, vì vậy sự thay đổi của một sinh vật là một phần của lưới thức ăn có thể ảnh hưởng đến các phần khác.
2. Bậc sinh dưỡng của lưới thức ăn:
Một lưới thức ăn hoàn chỉnh có cấu trúc gồm có: sinh vật sản xuất (thực vât…) – Sinh vật tiêu thụ (sinh vật tiêu thụ bậc 1, bậc 2….; là những sinh vật ăn thực vật, sinh vật ăn động vật…) – sinh vật phân hủy (vi sinh vật, nấm). Những thành phần này có thể chia thành những cấp độ như sau:
– Nguồn cung cấp thức ăn (hay sinh vật sản xuất): là thành phần đầu tiên trong lưới thức ăn, là nguồn cung cấp thức ăn chính cho các sinh vật tiếp theo. – thường bao gồm các sinh vật có khả năng tự dưỡng, như tảo, cây xanh,…
– Nguồn tiêu thụ chính (hay các sinh vật ăn thực vật): đây là các loài sinh vật trực tiếp tiêu thụ các thực vật, chúng có thể là sâu bọ, động vật ăn lá, thỏ, lợn đất, con người… Đây còn được coi là bậc dinh dưỡng cấp 2 – gồm các động vật ăn thực vật.
– Nguồn tiêu thụ phụ (hay các sinh vật ăn thịt): đây là các loài sinh vật tiêu thụ chính nguồn tiêu thụ chính, chúng có thể là côn trùng, chim, động vật ăn thịt nhỏ, cá… Đây còn được coi là bậc dinh dưỡng cấp 3 – gồm các loài động vật ăn sinh vật tiêu thụ bậc 1.
– Nguồn tiêu thụ cao cấp: đây là các loài sinh vật ăn thịt của nguồn tiêu thụ phụ, chúng là những loài động vật ăn thịt lớn hơn, có khả năng săn mồi để tìm kiếm thức ăn, chúng có thể là sư tử, hổ, báo, cá mập, đại bàng… Đây còn được gọi là bậc dinh dưỡng cấp 4 hay bậc dinh dưỡng cao nhất – gồm những loài động vật ăn động vật (ăn sinh vật tiêu thụ bậc 2),..
3. Sự phân loại của lưới thức ăn:
3.1. Sinh vật sản xuất sơ cấp:
Sinh vật sản xuất sơ cấp là các sinh vật trong hệ sinh thái tạo ra sinh khối từ các hợp chất vô cơ. Trong hầu hết các trường hợp thì chúng là những sinh vật có thể quang hợp như thực vật, vi khuẩn lam, động vật nguyên sinh và một số sinh vật đơn bào khác. Bên cạnh đó cũng có một số lưới thức ăn có sinh vật sản xuất là những vi khuẩn cổ hay các sinh vật đơn bảo sản xuất sinh khối bằng cách oxy hóa các hợp chất hóa học vô cơ trong các cổng nhiệt biển sâu. Những sinh vật này được coi là sinh vật tồn tại ở mức độ dinh dưỡng thấp.
Ví dụ điển hình như địa y (sinh vật sống ở vùng khí hậu lãnh nguyên) là một sinh vật sản xuất sơ cấp bằng cách sống cộng sinh và tích hợp năng lượng quang hợp của tảo (hoặc liên kết nitơ với vi khuẩn lam).
Ngoài ra, nấm và các sinh vật khác nhận sinh khối từ quá trình oxy hóa chất hữu cơ được gọi là sinh vật phân hủy và chúng không phải là sinh vật chính.
3.2. Sinh vật tiêu thụ:
Sinh vật tiêu thụ là các sinh vật của chuỗi thức ăn, thu được năng lượng bằng việc ăn những sinh vật khác. Các sinh vật này được xác định là sinh vật dị dưỡng bao gồm động vật cùng một số vi khuẩn và nấm. Chúng có thể tiêu thụ theo nhiều cách khác nhau, có thể ăn cỏ, ăn thịt, ký sinh hoặc phân hủy sinh học.
3.3. Sinh vật phân giải:
Sinh vật phân giải trong sơ đồ lưới thức ăn là các sinh vật chết hoặc thối rữa. Chúng có thể là động vật hoang dã ăn thịt và động vật hoang dã ăn cỏ, các sinh vật phân ly là loài dị dưỡng đã trải qua các quá trình phân hủy tự nhiên.
Nghĩa là chúng sử dụng chất hữu cơ để sinh trưởng và phát triển nguồn năng lượng, các bon và chất dinh dưỡng. Những động vật không xương sống như rệp, giun đất hay hải sâm không thể hấp thụ được các chất dinh dưỡng như các loài động vật khác nên chúng cần phân hủy để tiêu hóa chất dinh dưỡng. Quá trình phân hủy xảy ra bằng những quy trình hóa học và sinh học.
4. Vai trò của thực vật đối với lưới thức ăn:
Các chuyên gia sinh học đã chia tất cả những dạng sống trong môi trường thành 2 thành phần sức khỏe gồm: sinh vật tự dưỡng và sinh vật dị dưỡng.
So với quá trình trao đổi chất qua hô hấp thì các tế bào chỉ tạo ra năng lượng sinh khối. Cũng có thể từ quang năng cảm ứng hóa học hay quang năng trong quá trình quang hợp. Các sinh vật dị dưỡng ăn thay vì tạo ra năng lượng sinh khối và khi chúng sản xuất thì phát triển và mở rộng sang giai đoạn sinh sản thứ 2.
Lưới thức ăn mô tả một nhóm sinh vật nhiều chất béo tấn công các sinh vật khác nhỏ hơn, chúng nhập năng lượng và thực phẩm từ một môi trường tự duy trì.
Những loài bazan trong lưới thức ăn là các loài không phải động vật có thể gồm những loài sinh vật sống hoặc sinh vật đáy như: đất thối rữa hay màng sinh học, thực vật biểu sinh. Thực vật không cần đến các loài khác mà vẫn có thể tự thực hiện quá trình quang hợp bằng cách chuyển hóa các chất vô cơ từ CO2 và hơi nước thành các chất hữu cơ (protein, tinh bột,…)
Đồng thời, chúng còn có thể chuyển hóa quang năng thông qua ánh sáng vào các sinh vật bằng hóa chất hữu cơ – nguồn thức ăn chăn nuôi thiết yếu mà con người cần nhất. .
5. Ý nghĩa của lưới thức ăn đối với tự nhiên:
Việc nghiên cứu về lưới thức ăn có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho đời sống và khoa học. Những mạng lưới như vậy cho thấy năng lượng chảy qua hệ sinh thái được diễn ra như thế nào.
Việc tìm hiểu về lưới thức ăn, sơ đồ lưới thức ăn trong hệ sinh thái còn giúp chúng ta hiểu và có thể giải thích về sự đa dạng của các loài trong tự nhiên có liên quan đến nhau như thế nào. Từ đó biết được liệu chúng phù hợp với xu hướng thức ăn tổng thể ra sao.
Ngoài ra, việc tìm hiểu quy trình xây dựng lưới thức ăn còn cho ta biết những thông tin về mối quan hệ giữa những loài có nguồn gốc từ một hệ sinh thái cụ thể và các loài xâm lấn khác.
Sơ đồ lưới thức ăn còn được mô tả như một sơ đồ thể hiện quan hệ “ai ăn ai”, đó là những mối quan hệ kiếm ăn phức tạp của các loài sinh vật khác nhau trong một hệ sinh thái.