Quy định của pháp luật về Luật sư (người bào chữa)? Luật sư (người bào chữa) có được bào chữa cho người thân?
Trên thực tế không ít những trường hợp người thân thích của luật sư ( người bào chữa) bị vi phạm pháp luật. Vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì Luật sư (người bào chữa) có được bào chữa cho người thân?
Cơ sở pháp lý:
Dịch vụ Luật sư
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về Luật sư (người bào chữa):
Trước hết, theo quy định của pháp luật hiện hành thì ta có thể hiểu rằng luật sư là người thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác. Luật sư phải là những người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật,.
Khi hành nghề thì luật sư cũng cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định theo quy định của pháp luật. Cụ thể đó là: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan. Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.Chịu trách nhiệm trước pháo luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Bên cạnh đó ta cũng cần xác định được người bào chữa là ai theo quy định của pháp luật hiện hành. Theo đó, người bào chữa có thể hiểu là người được những người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Người bào chữa theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự có thể là một trong số đối tượng như: Luật sư. Người đại diện của người bị buộc tội.Bào chữa viên nhân dân. Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được giúp pháp lý.
Theo quy định này có thể xác định luật sư là người bào chữa.
Việc người bào chữa tham gia vào tố tụng cũng cần đáp ứng theo những nguyên tắc nhất định. Tại Điều 74
Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra để giữ bí mật điều tra.
Như vậy, thông thường người bào chữa sẽ tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định trên thì thời điểm này có thể được thay đổi.
Bên cạnh đó, khi tham gia vào quá trình tố tụng thì người bào chữa bắt buộc phải đăng ký bào chữa với các cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể việc đăng ký bào chữa thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo quy định này có thể xác định như sau:
Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ:Thẻ luật sư và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội.
Nếu người bào chữa là Bào chữa viên nhân dân: xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân và văn bản cử bào chữa viên nhân Nếu người bào chữa Trợ giúp viên pháp lý: xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư .
Nếu người bào chữa thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa thì người bào chữa xuất trình các giấy tờ: Luật sư xuất trình Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư . Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân và văn bản cử bào chữa viên nhân dân .Trợ giúp viên pháp lý xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
Như vậy, theo quy định nêu trên, trong mọi trường hợp thì người bào chữa đều phải đăng ký bào chữa.
2. Luật sư (người bào chữa) có được bào chữa cho người thân?
Như đã phân tích ở trên thì theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 người bào chữa có thể là luật sư. Luật sư sẽ là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Để xác định được vấn đề luật sư có được bào chữa cho người thân hay không thì trước tiên ta cần xác định được những tiêu chuẩn của một luật sư, những việc luật sư được phép làm hoặc không và những nguyên tắc hành nghề của luật sư cũng như quyền và nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng.
Một luật sư cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định theo quy định của luật luật sư, cụ thể luật sư phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư. Người có đủ điều kiện tiêu chuẩn nêu trên muốn được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Bên cạnh đó, là một luật sư thì phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng, chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Đồng thời theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự ta cũng có thể xác định được một số trường hợp không được bào chữa đó là:
Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Như vậy, nếu luật sư là người thân thích được yêu cầu bào chữa cho người bị buộc tội mà không thuộc các trường hợp người không được bào chữa thì được bào chữa cho người bị buộc tội.
Tuy nhiên khi thực hiện việc bào chữa, luật sư cũng cần đảm bảo thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Cụ thể luật sư có các quyền như:
Cơ quyền được gặp, hỏi người bị buộc tội;
Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
Người bào chữa được quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định
Người bào chữa, theo quy định của pháp luật sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác
Người bào chữa có quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự.
Người bào chữa cũng có quyền được đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.
Trong quá trình tố tụng, người bào chữa có quyền được thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu để chuẩn bị cho việc bào chữa.
Người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khi thấy cần thiết, người bào chữa cũng có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
Trong quá trình điều tra, để đảm bảo tính khách quan, người bào chữa cũng được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
Một quyền tất yếu của người bào chữa là được tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cho rằng những quyết định, hành vi đó gây thiệt hại đến quyền và lợi ịch của mình, của thân chủ
Người bào chữa có quyền được kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa có nghĩa vụ sau đây:
Trong quá trình tố tụng để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo người bào chữa phải sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định Khi nhận lời bào chữa thì người bào chữa phải giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng người bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa
Người bào chữa thi bảo vệ cho thân chủ của mình vẫn phải tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Khi có giấy triệu tập của Tòa án thì người bào chữa phải có mặt, trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
Trong quá trình tham gia tố tụng người bào chữa phải đảm bảo không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
Đặc biệt lưu ý là không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Cuối cùng là, nếu người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật.
Tóm lại, nếu luật sư là người thân thích được yêu cầu bào chữa cho người bị buộc tội mà không thuộc các trường hợp người không được bào chữa thì được bào chữa cho người bị buộc tội.