Quá trình hứa thưởng giữa luật sư và khách hàng là một trong những vấn đề cần phải xem xét, luật sư cũng không được ký kết các hợp đồng hứa thưởng vì đó được xem là hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Nhiều người hiện nay vẫn thắc mắc: Luật sư có được nhận hứa thưởng của khách hàng hay không?
Mục lục bài viết
1. Luật sư có được nhận hứa thưởng của khách hàng không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 570 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, người nào công khai việc hứa thưởng với người khác theo quy định của pháp luật, mà sau đó người khác đã thực hiện được công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng, thì người đã công khai cứ tưởng sẽ phải có trách nhiệm và có nghĩa vụ trả thưởng theo đúng những gì mà mình đã hứa, theo đúng những gì mà mình đã thông báo trước đó cho người được hứa thưởng. Như vậy có thể nói, hứa thưởng là một trong những hình thức của giao dịch dân sự được pháp luật dân sự quy định.
Căn cứ theo quy định tại Điều 385 của Bộ luật dân sự năm 2015 có định nghĩa về hợp đồng, hợp đồng được xem là thỏa thuận của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Như vậy, căn cứ theo hai điều luật nêu trên pháp luật hiện nay không có quy định về
Nhiều người hiện nay đặt ra câu hỏi: Luật sư có được nhận hứa thưởng của khách hàng hay không? Để trả lời được câu hỏi này thì cần phải tìm hiểu quy định của pháp luật về các hành vi nghiêm cấm bị thực hiện của luật sư. Căn cứ theo quy định tại Điều 9 của Văn bản hợp nhất Luật luật sư năm 2015 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Theo đó, nghiêm cấm các luật sư thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
– Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng mà các khách hàng đó có quyền lợi đối lập nhau trong các vụ án hình sự, đối lập nhau trong vụ án dân sự, đối lập nhau trong vụ án hành chính, trong việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật trái quy định của pháp luật không đảm bảo tính vô tư và khách quan trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của luật sư;
– Cố tình có hành vi cung cấp vật hướng dẫn khách hàng cung cấp các loại tài liệu, cung cấp các bằng chứng sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, xúi giục bị can, xúi giục bị cáo, xúi giục các được sự sai trái sự thật, xúi giục khách hàng khiếu nại hoặc tố cáo, khiếu kiện trái quy định của pháp luật;
– Có hành vi tiết lộ thông tin về vụ việc trái quy định của pháp luật mà mình biết được trong quá trình hành nghề, tiết lộ thông tin của khách hàng mà mình biết được, trừ trường hợp khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Có hành vi lừa dối khách hàng, nhiễu sách trái quy định của pháp luật;
– Nhận hoặc đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản lợi ích nào từ khách hàng, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền nào từ khách hàng, ngoài khoản thù lao và chi phí mà luật sư đã thỏa thuận với khách hàng trong dịch vụ hợp đồng pháp lý;
– Móc nối và có quan hệ với người tiến hành tố tụng, có quan hệ với người tham gia tố tụng, các cán bộ công chức, viên chức để làm trái quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc liên quan;
– Lợi dụng việc hành nghề luật sư để thực hiện hành vi trái pháp luật, từ đó gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn quốc gia, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội;
– Nhận hoặc đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, có hành vi từ chối vụ việc đó đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, các cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Có lời lẽ hoặc hành vi xúc phạm cá nhân, xúc phạm cơ quan tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Tự mình thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm kéo dài thời gian giải quyết vụ việc hoặc giúp khách hàng thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan nhà nước khác.
Như vậy, luật sư sẽ không được thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm theo như phân tích nêu trên. Theo đó có thể thấy, luật sư chỉ được thu được những khoản tiền mà luật sư và khách hàng đã được thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý các bên đã ghi nhận ban đầu. Ngoài ra, luật sư sẽ không được thu thêm bất kỳ một khoản tiền hoặc chi phí lợi ích nào khác ngoài hợp đồng.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại mục 9.2 của Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư tại Việt Nam cũng có quy định: Luật sư theo quy định hiện nay sẽ không được gọi Ý phải không được đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư, cha mẹ, vợ chồng, con, anh chị em của luật sư. Và đây cũng được xem là một trong những việc mà luật sư không được làm trong quá trình hợp tác và quan hệ với khách hàng, bất kỳ luật sư nào trong quá trình hành nghề cũng cần phải ghi nhớ và tuân thủ theo. Theo đó thì luật sư sẽ không được có ý và đặt điều kiện cho khách hàng. Vấn đề đặt điều kiện ở đây cũng tương tự như việc hứa thưởng, nó có thể là điều kiện ràng buộc để hợp đồng dịch vụ pháp lý có hiệu lực, do đó cho nên việc luật sư hứa nhận thưởng với khách hàng là một trong những khoản lợi ích nằm ngoài các khoản chi phí đã được thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý được ký kết với khách hàng ban đầu. Hành vi luật sư nhận hứa thưởng của khách hàng cũng được xem là một hành vi đặt điều kiện với khách hàng, đây được xem là hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong nguyên tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp của luật sư.
Tóm lại, luật sư sẽ không được nhận thưởng của khách hàng dưới bất kỳ hình thức nào. Đồng thời, luật sư cũng không được ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng, nếu vi phạm thì sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật.
2. Luật sư có được hứa hẹn kết quả vụ việc với khách hàng không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 của Bộ quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam có ban hành kèm theo Quyết định 201/QĐ-HĐLSTQ của Hội đồng Luật sư toàn quốc về việc ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam, có quy định cụ thể về những vấn đề mà luật sư không được làm với khách hàng trong quan hệ ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Theo đó thì luật sư trong quan hệ với khách hàng sẽ không được làm những việc sau:
– Nhận hoặc chiếm giữ, sử dụng tiền hoặc tài sản của khách hàng trái quy định của pháp luật, trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng;
– Gợi ý hoặc đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản, để khách hàng tặng cho lợi ích khác đối với luật sư hoặc đối với cha mẹ, vợ chồng, con, anh chị em của luật sư;
– Nhận tiền hoặc nhận bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để có thể thực hiện hoặc nhằm mục đích không thực hiện một công việc nào đó gây thiệt hại đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của khách hàng;
– Tạo ra các tình huống xấu, lợi dụng các tình huống xấu, lợi dụng những thông tin sai sự thật hoặc không đầy đủ, thông tin gây bất lợi cho khách hàng để từ đó gây áp lực nhằm mục đích tăng thù lao đã thỏa thuận với khách hàng hoặc có được những lợi ích khác từ khách hàng;
– Sử dụng thông tin mà biết rõ đó là thông tin từ các vụ việc luật sư đã đảm nhận chức đó để mưu cầu lợi ích không chính đáng đối với khách hàng;
– Thông tin trực tiếp cho khách hàng, có lời lẽ hoặc hành vi để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân giữa luật sư với các cơ quan có thẩm quyền nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng, tạo niềm tin cho khách hàng về hiệu quả của công việc, nhằm mục đích thu lợi bất chính hoặc trục lợi cá nhân;
– Cố tình đưa những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của luật sư, từ đó tạo niềm tin cho khách hàng ký kết các loại hợp đồng với luật sư;
– Hứa hẹn, cam kết đảm bảo kết quả về vụ việc đối với khách hàng, cam kết những nội dung nằm ngoài khả năng của luật sư, nằm ngoài điều kiện thực hiện của luật sư;
– Lợi dụng nghề nghiệp tạo ra mối quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng;
– Lạm dụng các chức danh ngoài danh xưng luật sư trong quá trình hành nghề để mưu cầu lợi ích trái quy định pháp luật.
Theo đó có thể nói, một trong những vấn đề mà luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng đó là hứa hẹn và cam kết về kết quả của vụ việc đối với những nội dung nằm ngoài khả năng và nằm ngoài điều kiện thực hiện của luật sư. Vì vậy đây được xem là hành vi trái quy định của pháp luật và luật sư không được thực hiện.
3. Tại sao luật sư không được nhận hứa thưởng của khách hàng?
Sở dĩ pháp luật hiện nay không cho phép luật sư được nhận hứa thưởng của khách hàng bởi vì xuất phát từ bản chất và công việc của luật sư. Kết quả của công việc đó, tức là kết quả thành công của bộ việc chỉ phụ thuộc một phần vào năng lực của luật sư, không phụ thuộc hoàn toàn vào luật sư mà còn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó luật sư không phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho nên sẽ không thể biết trước kết quả, do đó cho nên nếu hứa thưởng với khách hàng thì tức là luật sư đang thực hiện nhiều hành vi trái quy định của pháp luật, sử dụng các mối quan hệ xung quanh để giải quyết vụ việc. Bên cạnh đó, giúp khách hàng thắng kiện là một trong những nghĩa vụ của luật sư, đây không phải là một trong những điều kiện ràng buộc trong hợp đồng pháp lý.
Căn cứ theo quy định của pháp luật về luật sư và quy tắc trong bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư tại Việt Nam cũng đã quy định: Luật sư sẽ phải có nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của khách hàng và của đương sự. Như vậy, pháp luật ở đây đã quy định nghĩa vụ tốt nhất mà luật sư cần phải đắp ứng đó là việc thắng kiện và giúp cho khách hàng thắng kiện, đó được xem là nghĩa vụ của luật sư và đó là điều hiển nhiên, không phải lấy điều đó để có thể đòi hỏi vấn đề trả thưởng từ khách hàng.
Vì vậy có thể nói, luật sư được xem là một trong những người mang lại sứ mệnh để bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng khi quyền lợi đó bị xâm phạm, luật sư góp phần bảo vệ công lý. Để có thể làm được điều đó, luật sư cần phải trung thực, cần phải tôn trọng sự thật khách quan, không hoạt động vì lợi ích trục lợi cá nhân thì mới có thể hoàn thành được trách nhiệm của mình. Vì vậy cho nên không thể thực hiện hoạt động hứa thưởng trong quá trình giao kết hợp đồng với khách hàng.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
–
– Quyết định 201/QĐ-HĐLSTQ của Hội đồng Luật sư toàn quốc về việc ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam.