Cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Không trả được tiền khi mua hàng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Luật sư cho em hỏi: Gần bạn của em có đặt hàng qua mạng để mua đồ giá tiền là 6.000.000. Nhưng bây giờ bạn em không có tiền, người chủ hàng trên mạng nói là lừa gạt rồi báo công an. Cho em hỏi như vậy là bạn em có mang tội lừa đảo không và nếu có phạm tội thì mức độ xử lí như thế nào mà bạn em là 16 tuổi ? Em xin Luật sư tư vấn giùm em!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
…”
Dấu hiệu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khoản 1, khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Hành vi: Chủ thể phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản đó. Thủ đoạn gian dối bao giờ cũng có trước khi việc giao tài sản giữa người bị hại và người phạm tội.
Hậu quả: Là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài sản này phải từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 174 nêu trên.
Lỗi: Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý với mong muốn là chiếm đoạt được tài sản.
Như thế, trong trường hợp này, việc bạn của bạn đặt hàng qua mạng nhưng không trả được tiền cho chủ cửa hàng thì cần phân biệt như sau:
Thứ nhất, bạn của bạn đã lấy hàng và không trả tiền, có dấu hiệu bỏ trốn thì trường hợp này bạn của bạn có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, bạn của bạn đã lấy hàng và không có khả năng trả tiền, không có dấu hiệu bỏ trốn thì trường hợp này không có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vấn đề này được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Căn cứ Điều 430 Bộ luật dân sự 2015 thì: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.
Thứ ba: Bạn của bạn chưa nhận hàng, chỉ nhận mua hàng thì không cấu thành tội phạm
Như thế, bên mua phải có nghĩa vụ:
– Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
–Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015.
Do đó, bạn của bạn phải trả lãi trong trường hợp chậm trả cho bên mua (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác).
Mục lục bài viết
- 1 1. Có được xem là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không?
- 2 2. Thế nào là lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
- 3 3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
- 4 4. Vu khống lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- 5 5. Xử lý người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- 6 6. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải chịu trách nhiệm như thế nào?
1. Có được xem là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không?
Tóm tắt câu hỏi:
Hiện tại em có một vấn đề xin các anh chị luật sư tư vấn giúp em. Năm 2019, mẹ em có bán một suất đất dịch vụ (đất được nhà nước phân chia do thu hồi đất ruộng nhưng hiện nay đất ruộng đấy của nhà em lại không được chia đất dịch vụ) của gia đình cho 4 người số tiền lên đến 4.4 tỷ. Hiện nay nhà em không có đất để giao cũng không có tiền để trả lại người mua đất. Lúc bán mẹ em có làm giả chứng minh thư để nhờ người khác thay bố em ký vào giấy tờ mua bán (bố em đi công tác không biết việc làm của mẹ em). Em và 2 em trai có tham gia ký lúc đó em và em thứ 2 đã đủ 18 tuổi còn em út 16 tuổi, ngoài ra em không tham gia vào việc đàm phán thương lượng hay nhận tiền bán đất. Nay mẹ em đã bỏ trốn. Xin các anh chị tư vấn giúp em về mức án dành cho mẹ em, em và 2 em trai đã ra cơ quan công an quận làm bản tường trình và bác công an có nói chúng em phạm tội đồng lõa lừa đảo chiếm đoạt tài sản, em không biết người mẹ em thuê để giả chữ ký của bố em là ai ở đâu nhưng bên công an kết luận em bao che tội phạm và nói nếu em không nhận sẽ gửi công văn cho công ty em đề nghị cho em nghỉ việc để hỗ trợ điều tra. Đối với trường hợp của gia đình em sẽ bị pháp luật xử lý như thế nào ạ. Em mong sớm nhận được sự tư vấn của các anh chị. Em xin cảm ơn ạ.
Luật sư trả lời:
Trường hợp mẹ của bạn có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc kết luận mẹ của bạn phạm tội gì phụ thuộc tại thời điểm ký hợp đồng bán đất cho 4 người mua đất, mẹ của bạn đã biết việc gia đình bạn không được phân chia đất dịch vụ hay chưa. Nếu thời điểm đó, mẹ của bạn đã biết việc gia đình bạn không được phân chia đất dịch vụ mà vẫn ký hợp đồng bán đất thì mẹ của bạn đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của những người mua đất được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Còn nếu tại thời điểm đó, mẹ của bạn chưa biết việc gia đình bạn không được phân chia đất dịch vụ mà vẫn nghĩ rằng gia đình bạn sẽ được phân chia một suất đất dịch vụ rồi sau này mới biết việc gia đình bạn không được phân chia đất dịch vụ thì mẹ của bạn phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạn tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
…
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.“
Về mức hình phạt mà mẹ của bạn có thể phải chịu thì vì số tiền chiếm đoạt là rất lớn tới 4.4 tỉ đồng cho nên mức án dành cho mẹ của bạn là rất nặng. Cụ thể, nếu mẹ của bạn bị kết án 1 trong 2 tội phạm đã nêu ở trên thì khung hình phạt là từ 12 năm đến 20 năm hoặc chung thân theo quy định tại khoản 4 Điều 174 và khoản 4 Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 quy định về đồng phạm như sau:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Trường hợp của bạn và các em bạn có bị kết luận là đồng phạm hay không phụ thuộc vào việc bạn và các em của bạn có cố ý cùng với mẹ của bạn phạm tội hay không. Về vấn đề che dấu tội phạm bộ luật hình sự có quy định tại Điều 18 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“Điều 18. Che giấu tội phạm
1. Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.”
Nếu bạn không biết người đã giả chữ ký của bố bạn là ai và không tìm cách che giấu việc bỏ chốn của mẹ và không biết hiện mẹ của bạn đang ở đâu thì bạn không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che dấu tội phạm.
2. Thế nào là lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Theo quy định trong Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
…”
Về mặt khách quan:
Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như: giả vờ vay , mượn, thuê để nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả: Người phạm tội đã chiếm được tài sản
Về mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Mục đích: Chiếm đoạt tài sản; thực hiện được thủ đoạn gian dối để người khác tin mình.
Về khách thể:
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu.
Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là tài sản.
Về mặt chủ thể:
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường.. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ thể của tội phạm.
3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi: Hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý làm dịch chuyển một cách phi pháp tài sản đang thuộc sự sở hữu, quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình qua đó làm mất đi khả năng thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản trên thực tế. Do đó, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác thành tài sản của mình bằng cách đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm cho người đang chiếm giữ tài sản tin mà giao, nhận nhầm hoặc không nhận tài sản.
Thực tiễn việc nhận thức đặc điểm hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nhiều ý kiến khác nhau, dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm có tính khái quát dẫn đến việc xác định tội danh gặp khó khăn. Để xác định cần căn cứ vào “thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản” trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Về hình thức thì người phạm tội phải đồng thời thực hiện hai hành vi là hành vi gian dối với nạn nhân và hành vi chiếm đoạt tài sản của nạn nhân. Tuy nhiên, khi xem xét không thể tách biệt mà phải đảm bảo thống nhất trong cùng vụ việc. Người phạm tội chỉ có sử dụng thủ đoạn gian dối mới làm cho người bị hại trao nhầm tài sản.Vấn đề này được hiểu là người phạm tội đã sử dụng mọi phương pháp để che dấu bằng cách đưa ra những thông tin không đúng sự thật như dùng lời nói dối trá; giấy tờ giả mạo; giả danh người có vụ quyền hạn; giả danh các tổ chức để ký kết hợp đồng không ngay thẳng hoặc kết hợp tất cả các cách làm nói trên. Với những thủ đoạn này người phạm tội làm cho người chủ tài sản tin nhầm tưởng giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay mà “tự nguyện” trao tài sản để họ chiếm đoạt tài sản đó. Do đó hành vi gian dối có tình chất sau đây:
– Hành vi gian dối phải có trước hoặc đi liền với hành vi chiếm đoạt, hai hành vi này có mối quan hệ nguyên nhân – kết quả một cách trực tiếp
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp, điều kiện trực tiếp của kết quả, mục đích chiếm đoạt- chuyển dịch tài sản từ người quản lý sang người phạm tội. Tức là, người phạm tội chỉ thực hiện hành vi gian dối mới có thể chiếm đoạt được tài sản hay nói cách khác, chỉ có thể chiếm đoạt được tài sản khi dùng thủ đoạn gian dối.
Như vậy, để thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối làm cho người quản lí tài sản tin trao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản;
Đặc điểm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm đồng thời phải thực hiện hai hành vi là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Về tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản là nếu tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của chủ tài sản, thì hình thức chiếm đoạt là nhận tài sản từ người bị lừa dối; nếu tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội, thì hình thức cụ thể là giữ lại tài sản đáng ra phải giao cho người bị lừa dối. Chẳng hạn do tin vào lời nói của người phạm tội nên người phạm tội đã nhận nhầm tài sản như nhận thiếu, nhận sai loại tài sản đáng ra được nhận. Do đó thủ đoạn gian dối phải gắn với hành vi chiếm đoạt tài sản. Khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, sau một khoảng thời gian nhất định, nạn nhân mới biết mình bị lừa đảo.
Ví dụ: A có ý định chiếm đoạt tài sản của chủ hiệu kinh doanh vàng. A đã giả làm người đi hỏi mua vàng, người bán hàng đưa cho xem dây chuyền vàng, A cầm dây chuyền vàng bỏ chạy. Trong tình huống này có hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất: A lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì A có hành vi gian dối (thực chất không phải mua bán mà nói là cần mua vàng) làm người bán hàng tưởng là mua bán thật mà đã trao tài sản nên đối tượng có cơ hội chiếm đoạt tài sản
Quan điểm thứ hai: A cướp giật tài sản. Vì chiếm đoạt tài sản phải được xác định từ thời điểm A cầm vàng bỏ chạy, do đó hành vi chiếm đoạt sản trong trường hợp này có tính chất công khai, nhanh chóng. Hành vi giả đi mua vàng được xem là thủ đoạn gian dối nhưng không phải là hành vi khách quan “thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản” mà là để tiếp cận tài sản, tạo thuận lợi để sau đó mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn “cầm tài sản bỏ chạy”
Cần phải hiểu rằng, không phải cứ có thủ đoạn gian dối khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì đều có thể xem là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiểu như thế là không chính xác. Bởi vì, tùy thuộc vào đặc điểm của thủ đoạn gian dối có thể hành vi gian dối chỉ là thủ đoạn để nhằm tiếp cận tài sản sau đó mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
–Thủ đoạn gian dối của người phạm là căn cứ để người bị hại “tự nguyện” trao tài sản.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, việc chiếm đoạt tài sản phải được thể hiện dưới hình thức tự nguyện. Có nghĩa là, vì tin vào những thông tin sai sự thật của người phạm tội mà người bị hại đã “tự nguyện” trao tài sản cho người phạm tội, khác với trong tội cướp hay cướng giật, tài sản rơi vào tay người phạm tội, sự dịch chuyển tài sản từ người bị hại hoàn toàn là do hành vi vũ lực, cưỡng ép… của người phạm tội, hoàn toàn không xuất hiện yếu tộ “tự nguyện” như trong lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trên thực tế có nhiều trường hợp, khi xác định tội danh rấ hay nhầm lẫn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản. Để phân biệt, cần chú ý trong trường hợp chuyển hóa thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải hình thành và chưa kết thúc (hành vi phạm tội thực sự chấm dứt trên thực tế, người phạm tội nhận thấy không cần thực hiện thêm bất cứ một hành vi phạm tội nào khác. Ở đây, tội phạm chưa kết thúc là người phạm tội chưa đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản).
4. Vu khống lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có mượn của người bạn tôi một số tiền lãi suất hai bên đã thỏa thuận. Nhưng nay bạn tôi đòi tôi và làm giấy tờ giả với nội dung vu khống cho tôi là lừa đảo cầm tiền để mua ô tô hộ bạn tôi chứ không phải là vay lãi và số tiền bạn tôi viết là gấp đôi số tiền tôi vay. Tôi xin hỏi Luật sư người bạn tôi như vậy có sao không? Tôi nên làm gì?
Luật sư tư vấn:
Theo Điều 471 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau:
“Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Thỏa thuận giữa hai bạn là hợp đồng, giấy tờ vay mượn thì bạn có thể chứng minh số tiền kia do bạn của bạn bịa đặt ra nhằm chiếm đoạt tài sản. Trường hợp thỏa thuận không có hợp đồng, giấy tờ vay mượn thì bạn phải có chứng cứ chứng minh được số tiền bạn vay. Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định vê chứng cứ :
“Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.”
Theo đó, bạn cần phải tạo lập bằng chứng về việc vay tiền như gọi điện, nhắn tin gặp gỡ để ghi âm, ghi chép, hoặc các tin nhắn, giấy tờ nhận tiền trong quá trình vay, khi đó mọi giấy tờ của người cho vay kia đều không có hiệu lực. Nếu bạn đã trả tiền cho người cho vay bạn có thể khởi kiện với tội danh theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
…”
Như vậy, bạn phải chứng minh được số tiền mà bạn vay, bạn của bạn dùng thủ đoạn gian dối là làm giả giấy tờ, giả chữ kí của bạn nhằm chiếm đoạt tài sản. Bạn hoàn toàn có thể khởi kiện bạn của bạn nếu có các chứng cứ chứng minh được số tiền đó.
5. Xử lý người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt câu hỏi:
Luật sư cho hỏi: Vào năm 2018 tôi tự ý lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) của ông nội tôi để giả chữ ký ủy quyền cho ông Phong vay vốn với số tiền 50 triệu đồng (ông Phong không biết việc này) nhưng khi làm hồ sơ vay ông Phong vay đến 500 triệu đồng và có đưa cho tôi số tiền tôi cần vay là 50 triệu đồng. Sau khi được ngân hàng thông báo thì tôi và gia đình mới biết được sự việc, ngân hàng cũng đã làm việc với tôi để nắm bắt nội dung về số tiền tôi vay vào năm 2018 và mãi cho đến nay (đến thời điểm này là tháng 7/2020) ông Phong vẫn không thực hiện việc trả nợ số tiền vay vượt 450 triệu đồng và tiền lãi cho ngân hàng và ngân hàng cũng không có ý kiến gì tiếp theo. Hiện nay Nhà nước đang tiến hành đo đạc lại đất đai và yêu cầu cung cấp sổ đỏ thì gia đình tôi không có vì sổ đỏ đã thế chấp ở ngân hàng. Vậy tôi nên làm gì để giải quyết vụ việc này và trách nhiệm của tôi và những người liên quan bị xử lý như thế nào, mức độ ra sao, nhờ Luật sư tư vấn giúp!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
+ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
+ Mục đích: Chiếm đoạt tài sản; thực hiện được thủ đoạn gian dối để người khác tin mình.
– Về mặt khách quan:
+ Người phạm tội có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như: giả vờ vay , mượn, thuê để nhằm chiếm đoạt tài sản.
+ Hậu quả: Người phạm tội đã chiếm được tài sản. Tài sản là tài sản của chủ sở hữu hợp pháp hoặc người chiếm giữ tài sản ( không phân biệt chiếm giữ hợp pháp hoặc chiếm giữ bất hợp pháp)
– Khách thể phạm tội:
+ Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu.
+ Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là tài sản.
– Về mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường.. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ thể của tội phạm.
Theo quy định trên, đối với trường hợp của bạn xử lý như sau:
– Thứ nhất: đối với hành vi bạn giả mạo chữ ký để ủy quyền cho người khác vay tiền hộ: Hành vi của bạn là hành vi gian dối, đưa ra thông tin giả (giả mạo chữ ký của ông bạn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để nhờ người khác vay tiền vay 50 triệu, bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
– Thứ hai, đối với hành vi của ông Phong là người trực tiếp vay tiền: Người vay tiền cho bạn không biết bạn có hành vi giả mạo chữ ký để nhờ người đó vay tiền. Tuy nhiên, bạn chỉ nhờ vay 50 triệu, người đó lại vay 500 triệu, người này đã nói dối bạn là chỉ vay được 50 triệu và đưa cho bạn 50 triệu, chiếm đoạt số tiền còn lại là 450 triệu. Ông Phong sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
6. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải chịu trách nhiệm như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Người bạn gái giới thiệu mai mối cho tôi một anh qua tin nhắn. Rồi cũng chính cô giả nam để liên lạc với tôi qua tin nhắn. Cô đóng vai người bạn tốt mai mối để gạt của tôi 20 triệu. Tôi biết chuyện và lấy lại được tiền. Nhưng tình cảm bị tổn thương. Xin hỏi luật sư, bây giờ tôi có kiện cô ấy được không? Cảm ơn luật sư!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
…”
Dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Chủ thể:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên, không rơi vào các trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3, khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017.
Hành vi: Chủ thể của tội phạm này phải có hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt: từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Lỗi: Chủ thể tội phạm này thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
Luật sư tư vấn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:1900.6568
Từ những phân tích trên, bạn của bạn trong trường hợp này phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi bạn của bạn có dấu hiệu dùng việc mai mối để lừa bạn với số tiền là 20 triệu đồng. Với hành vi này, bạn có thể tố cáo bạn của bạn ra cơ quan công an để cơ quan công an truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi của bạn của bạn.