Lời khai là gì? Chứng cứ là gì? Lời khai có phải là chứng cứ không? Quy định về lời khai của người làm chứng?
Lời khai của người làm chứng trước cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng những gì họ biết về vụ án thì những lời khai đó đều là nguồn chứng cứ nhưng chỉ những thông tin từ lời khai của người làm chứng đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ gồm tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp thì mới trở thành chứng cứ của vụ án hình sự. Đồng thời nội dung lời khai mới là chứng cứ của vụ án hình sự cụ thể. Lời khai của người làm chứng sẽ cung cấp nhiều thông tin khác nhau, vì vậy nó đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có sự kiểm tra, áp dụng những phương thức đánh giá các thông tin đó để xác định thông tin nào là chứng cứ của vụ án hình sự, thông tin nào không liên quan đến vụ án.
Mục lục bài viết
1. Lời khai là gì?
Lời khai là lời trình bày của bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự mà người này đã thực hiện hoặc biết được theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án theo trình tự luật định nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.
Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a)Vật chứng;
b)Lời khai, lời trình bày;
c)Dữ liệu điện tử;
d)Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ)Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e)Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g)Các tài liệu, đồ vật khác.
=> Như vậy, thì lời khai là một nguồn đề thu thập chứng cứ, và nội dung của lời khai chính là chứng cứ. Và theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự thì lời khai không phải chứng cứ mà nội dung của lời khai mới là chứng cứ.
2. Chứng cứ là gì?
Chứng cứ là một trong những chế định quan trọng của pháp luật tổ tụng hình sự: Đế giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xác định sự việc phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội là quá trình đã xảy ra trong quá khứ, muốn hình dung, tái hiện được diễn biển của nó cơ quan tiên hình tô tụng phải dựa vào chứng cứ của vụ án. Xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tung thu thập, kiếm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Điều 86
Thuộc tính của chứng cứ
+ Tính khách quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Tính khách quan đòi hỏi bản thân các nguồn thông tin này phải có thật, không phụ thuộc vào khả năng con người có nhận biết chúng hay không.Tính khách quan còn thể hiện ở chỗ những gì là suy đoán, tưởng tượng, không có thật thì không phải là chứng cứ.
+ Tính liên quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Có thể thấy, chứng cứ phải là cơ sở để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, có mối quan hệ nội tại với những tình tiết, nội dung của vụ án. Nếu những gì tồn tại khách quan nhưng không liên quan đến vụ án thì không phải là chứng cứ.
+ Tính hợp pháp của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Tính hợp pháp của chứng cứ trong tố tụng hình sự thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được rút ra từ những phương tiện chứng minh và được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định nhằm đảm bảo giá trị chứng minh của chứng cứ.
=>Những gì được coi là chứng cứ trong vụ án hình sự phải thỏa mãn đầy đủ ba thuộc tính trên. Nếu xét mối quan hệ nội tại giữa các thuộc tính của chứng cứ thì tính khách quan và tính liên quan là nội dung của chứng cứ còn tính hợp pháp là hình thức của chứng cứ.
3. Quy định về lời khai của người làm chứng:
Lời khai của người làm chứng là sự trình bày bằng miệng của người làm chứng về những tình tiết của vụ án hình sự, về đặc điểm nhân thân của người bị buộc tội, người bị hại, mối quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, người bị hại và những người làm chứng khác.
Lời khai của người làm chứng được quy định tại Điều 91, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
“1.Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2.Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.”
Việc khai báo trung thực những gì mình biết liên quan đến vụ án là nghĩa vụ bắt buộc mà người làm chứng phải thực hiện khi tham gia tố tụng hình sự. Nếu người làm chứng không có lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan mà khai báo gian dối, từ chối khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Cơ quan, chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện triệu tập người làm chứng được thể hiện như sau:
+ Khi triệu tập người làm chứng đến lấy lời khai, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập.
+ Giấy triệu tập người làm chứng ghi rõ họ tên, chỗ ở hoặc nơi làm việc, học tập của người làm chứng; giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm có mặt; mục đích và nội dung làm việc, thời gian làm việc; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
+ Việc giao giấy triệu tập được thực hiện như sau:
– Giấy triệu tập người làm chứng dưới 18 tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện khác của họ;
– Việc giao giấy triệu tập người làm chứng theo ủy thác tư pháp của nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản này và Luật tương trợ tư pháp.
+ Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập người làm chứng để lấy lời khai. Việc triệu tập người làm chứng được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Lấy lời khai người làm chứng được quy định tại Điều 186, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
“1. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó.
2. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3. Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
4. Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra viên phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. Điều tra viên yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi.
5. Trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này.”
=> Biên bản ghi lời khai của người làm chứng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
– Khi tiến hành hoạt động điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
– Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản phải đọc biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho họ quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Ý kiến bổ sung, nhận xét được ghi vào biên bản; trường hợp không chấp nhận bổ sung thì ghi rõ lý do vào biên bản. Người tham gia tố tụng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra cùng ký tên vào biên bản.
– Trường hợp Kiểm sát viên, Kiểm tra viên lập biên bản thì biên bản được thực hiện theo quy định tại Điều này. Biên bản phải được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc lập biên bản trong giai đoạn khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều 178, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.