Ngày 9 tháng 12 năm 2000, Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) được Quốc hội thông qua, chính thức có hiệu lực ngày 1 tháng 4 năm 2000. Từ khi ra đời, Luật KDBH đã góp phần tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại nước ta.
Theo thống kê của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, quy mô thị trường bảo hiểm đã phát triển nhanh chóng từ 15 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) năm 2000 lên 63 DNBH và 1 chi nhánh phi nhân thọ nước ngoài vào năm 2017; năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao, tăng trung bình 24%/ năm, dự phòng nghiệp vụ tăng khoảng 23%/năm, vốn chủ sở hữu đạt tăng 8%/năm; doanh thu của các doanh nghiệp cũng đạt mức tăng trưởng 20% trong gần 20 năm qua. Dù vậy, trong quá trình thi hành gần 20 năm, tình hình kinh tế – xã hội đã có nhiều thay đổi khiến cho một số quy định không còn phù hợp nữa. Tuy đã có hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2010 và năm 2019 nhưng Luật KDBH 2000 vẫn còn đó những bất cập chưa được giải quyết triệt để. Do đó, công tác sửa đổi và khắc phục những hạn chế trong các quy định về hợp đồng bảo hiểm là một vấn đề cần được quan tâm.
Mục lục bài viết
1. Quy định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm:
Về cơ bản, khái niệm về hợp đồng bảo hiểm đã được Luật KDBH định nghĩa một cách tương đối đầy đủ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật KDBH 2000: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm (BMBH) và DNBH, theo đó BMBH phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Bên cạnh Luật KDBH 2000, hợp đồng bảo hiểm còn được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) khác như Bộ luật Dân sự (BLDS), Bộ luật Hàng hải và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hợp đồng bảo hiểm hàng hải được áp dụng theo quy định của Bộ luật Hàng hải; những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhưng không được quy định trong Luật KDBH thì sẽ áp dụng theo quy định của BLDS và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Trước đây, BLDS 2005 đã dành ra Mục 11 Chương XVIII để quy định về hợp đồng bảo hiểm nhưng hiện tại BLDS 2015 đã bỏ các quy định về hợp đồng bảo hiểm, tạo cơ sở cho việc áp dụng thống nhất Luật KDBH để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng bảo hiểm.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn có sự quan tâm đến việc tận dụng tiềm năng và phát triển thị trường bảo hiểm tại Việt Nam. Mục III. 3 Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp “Phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường
Do đó, Luật KDBH đã trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2010 và 2019, phần nào khắc phục được những điểm chưa phù hợp với các văn bản pháp luật khác cũng như đáp ứng nhu cầu từ thực tiễn. Hiện nay, các quy định về hợp đồng bảo hiểm được quy định tại Chương II của Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019. Những quy định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm của Luật KDBH đã góp phần giúp cho hoạt động bảo hiểm ở nước ta có cơ sở pháp lý vững chắc để phát triển. Doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2011 – 2020, đạt 3,24% GDP vào năm 2019; tổng dự phòng nghiệp vụ tăng bình quân 21%/năm trong giai đoạn 2011 – 2019, đạt 285.965 tỷ đồng (năm 2019), gấp 5,1 lần so với năm 2010; tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế tăng bình quân 19%/năm trong giai đoạn 2011 – 2019, đạt 376.555 tỷ đồng (năm 2019). Sự tăng trưởng vững chắc trên phần nào cho thấy được những tác động tích cực mà Luật KDBH đã làm được, thể hiện sự quản lý và đường lối đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Bất cập trong quy định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm:
Sau gần 20 năm ra đời và thi hành, Luật KDBH 2000 đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội luôn thay đổi và phát triển từng ngày khiến cho một số quy định của Luật KDBH 2000 không còn phù hợp với thực tiễn, trong đó có thể kể đến là các quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, cụ thể:
Một là, quy định về xử lý hậu quả nếu một bên vi phạm trách nhiệm cung cấp thông tin. Theo khoản 1 Điều 19 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019 thì “Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho BMBH; BMBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho DNBH”. Luật KDBH đã quy định hai hậu quả khác nhau nếu một bên vi phạm nghĩa vụ trên, cụ thể: (i) theo khoản 1 và khoản 2 Điều 19 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019, nếu một bên cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên còn lại có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng; (ii) theo điểm d khoản 1 Điều 22 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019, nếu một bên có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng vô hiệu.
Hai hành vi “có hành vi lừa dối” và “cung cấp thông tin sai sự thật” có phần tương đồng về mặt bản chất nhưng lại dẫn đến hậu quả pháp lý lại khác nhau. Nếu áp dụng Điều 19 để đình chỉ thực hiện hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt kể từ thời điểm DNBH
Đối chiếu với quy định của BLDS 2015, theo Điều 428 BLDS 2015 căn cứ để áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng là hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình các bên thực hiện hợp đồng còn căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu là hành vi vi phạm xảy ra trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng theo quy định tại Điều 127 BLDS 2015. Tuy nhiên, hành vi “cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm” về bản chất là hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng, xảy ra trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng nhưng Luật KDBH lại quy định đây là căn cứ để đình chỉ thực hiện hợp đồng. Quy định này có phần mâu thuẫn so với BLDS 2015. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại cho rằng quy định này là hợp lý bởi lẽ đây là một quy định đặc thù nhằm đảm bảo quyền lợi của DNBH. Thông tin được cung cấp trong hợp đồng ảnh hưởng trực tiếp đến việc DNBH đánh giá rủi ro và ký kết hợp đồng. Nếu áp dụng điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm để tuyên hợp đồng vô hiệu thì quyền lợi DNBH sẽ không được bảo đảm. Theo quan điểm của tác giả, lập luận trên là chưa thỏa đáng, DNBH hoàn toàn có thể yêu cầu BMBH bồi thường thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu dựa trên quy định tại Điều 131 BLDS 2015 “…bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”, quyền lợi của DNBH vẫn được bảo đảm. Do đó, tác giả cho rằng quy định về hậu quả pháp lý đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin vẫn chưa rõ ràng và khó áp dụng.
Mặt khác, hậu quả pháp lý khi hai chủ thể (DNBH và BMBH) vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không tương xứng. Nếu BMBH vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì DNBH được quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ còn đối với trường hợp DNBH vi phạm thì BMBH có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng và DNBH bồi thường thiệt hại phát sinh do cung cấp sai thông tin. Nếu bên vi phạm là BMBH thì hậu quả pháp lý bất lợi họ phải chịu rất rõ ràng, cụ thể là khoản phí mà họ đã và sẽ phải đóng đến thời điểm đình chỉ hợp đồng mà bên DNBH không cần chứng minh thiệt hại. Thế nhưng, với trường hợp bên vi phạm là bên DNBH thì nghĩa vụ này lại khá mơ hồ, trừu tượng, nó phụ thuộc vào việc BMBH phải chứng minh được thiệt hại thực tế xảy ra.
Hai là, quy định về việc thay đổi rủi ro được bảo hiểm. Đối với các quyền lợi có tỉ lệ rủi ro càng lớn thì BMBH thường phải chịu mức phí bảo hiểm càng cao và ngược lại. Do đó, những sự kiện xảy ra làm thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm sẽ dẫn đến sự thay đổi về phí bảo hiểm. Điều 20 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019 đã nêu ra hai trường hợp: (i) sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm và (ii) sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm. Tuy nhiên, Điều 20 lại không có sự phân biệt rạch ròi về nguyên nhân là do khách quan hay chủ quan. Nếu tăng rủi ro do chủ quan, ví dụ như BMBH cố ý làm cho sức khỏe của mình bị giảm sút thì DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Ngược lại, nếu tăng rủi ro là do nguyên nhân khách quan như sức khỏe BMBH giảm sút do tuổi tác đã cao thì việc DNBH tăng phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm là có phần chưa hợp lý. Dù quy định pháp luật hiện tại cho phép bên còn lại có quyền không chấp nhận việc tăng/giảm phí bảo hiểm nhưng việc quy định hiện tại không có sự phân định rõ giữa nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan là thiếu hợp lý và có nhiều bất cập.
Ba là, quy định về thời hiệu khởi kiện. Theo Điều 30 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019 thì “Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp”. So với BLDS 2015, quy định của Luật KDBH có độ chênh nhất định. Theo đó, khoản 1 Điều 154 BLDS 2015 quy định “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định của Luật KDBH hiện tại không mâu thuẫn với BLDS 2015, bởi lẽ BLDS 2015 đã quy định ngoại lệ nếu pháp luật có quy định khác (ở đây là Điều 30 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019) thì sẽ áp dụng theo quy định đó. Mặc dù vậy, theo quan điểm của tác giả, quy định của Luật KDBH có phần bất hợp lý hơn so với quy định tại BLDS. Không phải trong trường hợp nào người có quyền, lợi ích bị xâm phạm cũng biết được ngay rằng quyền, lợi ích của mình đang bị xâm phạm. Điều này dẫn đến hậu quả đến khi phát hiện quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm thì thời hiệu khởi kiện của họ đã không còn và họ không thể thực hiện quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Do đó, quy định tại BLDS 2015 hợp lý hơn và cần được xem xét áp dụng với cả hợp đồng bảo hiểm.
Bốn là, quy định về các trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu. Theo điểm b khoản 1 Điều 22 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019, một trong những trường hợp hợp đồng vô hiệu chính là “Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm không tồn tại”. Quy định này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Nếu “đối tượng bảo hiểm không tồn tại” được hiểu là không có đối tượng bảo hiểm thì quy định hợp đồng vô hiệu là hợp lý, nhưng nếu hiểu theo hướng “đối tượng bảo hiểm không tồn tại” là đối tượng bảo hiểm không tồn tại về mặt vật lý lại là chưa phù hợp trong một số trường hợp. Những tài sản hình thành trong tương lai như nhà ở hình thành trong tương lai cũng được xem là một loại tài sản được bảo hiểm nhưng tại thời điểm giao kết hợp đồng, nhà ở chưa hề tồn tại về mặt vật lý.
Năm là, quy định về trường hợp không trả tiền bảo hiểm. Điểm c khoản 1 Điều 39 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019, “người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình” thì DNBH không phải trả tiền bảo hiểm. Hành vi cố ý phạm tội để nhận được hình phạt là tử hình, phát sinh sự kiện bảo hiểm nhằm mang lại lợi ích cho người thụ hưởng cũng là một trong những hình thức trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, quy định này xuất phát từ ý đồ lập pháp nào thì vẫn còn nhiều tranh cãi.
Quan điểm đầu tiên cho rằng quy định này là nhằm phòng tránh hành vi trục lợi từ hành vi phạm tội để được tử hình. Nếu bắt nguồn từ nguyên nhân này thì quy định trên là khá hợp lý. Tuy nhiên, quy định hiện hành cần ấn định một khoảng thời gian hợp lý như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019
Quan điểm thứ hai cho rằng quy định này là nhằm trừng phạt người được bảo hiểm do có hành vi phạm tội. Theo đó, või quy định hiện hành, người được bảo hiểm phạm tội dẫn đến bị tử hình vào bất kỳ thời điểm nào thì người thụ hưởng đều mất quyền thụ hưởng. Theo quan điểm của tác giả, dù người được bảo hiểm có phạm tội như thế nào thì quyền được nuôi dưỡng, cấp dưỡng của người thụ hưởng phải được pháp luật công nhận và bảo vệ. Như vậy, nếu quy định trên là nhằm mục đích trừng phạt thì sẽ rất thiếu hợp lý và thuyết phục.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện:
Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019 đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nước ta có những bước phát triển vững chãi trong những năm vừa qua. Tuy thế, trong quá trình thi hành, một số quy định đã không còn phù hợp với điều kiện xã hội hiện nay nữa. Vì thế, việc hoàn thiện các quy định pháp luật là hết sức cần thiết và quan trọng, cụ thể là:
Một là, hoàn thiện quy định về xử lý hậu quả nếu một bên vi phạm trách nhiệm cung cấp thông tin. Luật KDBH cần bổ sung những quy định, tiêu chí để xác định rõ đâu là trường hợp “lừa dối khi giao kết hợp đồng”, đâu là trường hợp “cố ý cung cấp thông tin không đúng sự thật”, để từ đó có cơ sở để áp dụng hai quy định trên một cách hợp lý. Ngoài ra, các nhà lập pháp cũng cần cân nhắc đảm bảo sự tương xứng về hậu quả pháp lý của hai chủ thể (DNBH và BMBH) khi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin.
Hai là, cần quy định theo hướng phân biệt rõ ràng giữa nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan trong việc thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm. Theo đó, nếu nguyên nhân là do chủ quan thì việc tăng/giảm phí sẽ không được chấp nhận còn nếu nguyên nhân là khách quan thì sẽ quy định như các quy định pháp luật hiện hành.
Ba là, về quy định thời hiệu khởi kiện. Với những lý do đã phân tích ở mục 2, tác giả đề xuất cần sửa đổi quy định theo hướng thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Quy định như thế sẽ đảm bảo quyền lợi của các bên hơn so với quy định pháp luật hiện hành.
Bốn là, cần quy định rõ ràng hơn về trường hợp đối tượng bảo hiểm không tồn tại, điều chỉnh lại quy định này để đảm bảo tính rõ ràng và phù hợp khi xác định trường hợp hợp đồng vô hiệu. Các nhà lập pháp cần nghiên cứu quy định để những tài sản như nhà ở hình thành trong tương lai không được xem là trường hợp đối tượng bảo hiểm không tồn tại khiến cho hợp đồng vô hiệu.
Năm là, cần quy định thêm thời hạn tính từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mà khi xét xử, tội phạm đó bị áp dụng hình phạt tử hình. Khoảng thời hạn này tương tự quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 Luật KDBH.
Bên cạnh việc bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý thì hoạt động nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật cũng cần được chú trọng, cụ thể cần có các biện pháp sau:
Một là, tuyên truyền các chính sách, pháp luật về bảo hiểm cho mọi người dân. Thường xuyên tổ chức các hội thảo để phổ biến kiến thức pháp luật cho các cá nhân, tổ chức. Trong tình hình giãn cách xã hội như hiện nay thì có thể áp dụng hình thức tổ chức hội thảo trực tuyến qua Zoom, Google Meets, Đồng thời với việc phổ biến pháp luật thì cũng cần phải nâng cao ý thức của các bên trong hợp đồng bảo hiểm.
Hai là, thường xuyên tổ chức các hội thảo để tham khảo ý kiến của các chuyên gia, từ đó hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật. Ngày 27/03/2019, Khoa
Kết luận
Luật KDBH 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và 2019 ra đời đã tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nước ta đạt được những thành công đáng ghi nhận. Sau hơn 20 năm thi hành và trải qua hai lần sửa đổi, bo sung, một số quy định pháp luật đã không còn phù hợp với thực tiễn. Do đó, vấn đề khắc phục và hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật là một vấn đề quan trọng và cần được chú trọng triển khai thực hiện để phát triển hơn nữa hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam.