Kiến nghị thực thi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định của BLTTHS 2015 và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Mục lục bài viết
1. Kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định của BLTTHS 2015 và các quy định pháp luật khác có liên quan:
Yếu tố pháp lý có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành một thủ tục tố tụng tranh tụng tại Tòa án, nhưng chính những rào cản về pháp lý đã làm cho các chủ thể tiến hành tố tụng trở nên lúng túng khi thực hiện các hoạt động tranh tụng. Việc đổi mới tư duy lập pháp dựa trên những định hướng cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng và
Thứ nhất, phải quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong các thủ tục tố tụng, quy định rõ việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, trong đó tranh tụng là hoạt động bắt buộc trong toàn bộ hoạt động xét xử vụ án hình sự kể từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án của VKS kèm theo quyết định truy tố, cáo trạng và kết thúc khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quy định nguyên tắc cơ bản là tranh tụng không đồng nghĩa với việc chúng ta khẳng định chuyển đổi 100% các thủ tục tố tụng sang tố tụng tranh tụng, mà ở đây là có sự kết hợp giữa tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Trong đó, tố tụng tranh tụng là yếu tố chủ đạo để giải quyết vụ án, còn phần thẩm vấn của Tòa án chỉ có tác dụng thẩm định, khẳng định những yếu tố tranh tụng là khách quan, hợp pháp để có những phán quyết đúng với quy định pháp luật.
Thứ hai, cần thiết phải quy định, Tòa án không được tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ của các bên. Điều này đồng nghĩa với việc ghi nhận Tòa án là một người trọng tài thực sự khi tham gia giải quyết các vụ án, Tòa án chỉ đưa ra các phán quyết dựa trên kết quả thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ, chứng minh và đưa ra các lý lẽ tại phiên tòa của các bên trong một vụ án. Quy định phải được nghiên cứu tỉ mỉ để đảm bảo Tòa án không tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ của các bên và Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, mà trong trường hợp thực sự cần thiết thì Tòa án sẽ hỗ trợ các bên thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh cho lý lẽ của mình là đúng, đặc biệt là bên yếu thế trong vụ án. Đồng thời, cần phải quy định rõ vai trò trọng tài và điều khiển tranh tụng của
Tòa án; Tòa án thông qua việc tranh tụng giữa VKS và bên bị buộc tội, người bào chữa tại phiên tòa và thực hiện vai trò của trọng tài trong phiên tòa để ra phán quyết khách quan, công bằng. Do đó, trong thủ tục xét hỏi nên quy định HĐXX chỉ hỏi câu hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn câu hỏi có tính chất buộc tội, gỡ tội thì thuộc trách nhiệm của KSV, người bào chữa.
Thứ ba, cần loại bỏ những trách nhiệm, nghĩa vụ tố tụng không thuộc chức năng xét xử của Tòa án để bảo đảm chất lượng tranh tụng trong xét xử. Đó là:
– Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố vụ án và xử lý vụ án hình sự (Điều 18 Bộ luật TTHS năm 2015). Nguyên tắc này quy định trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự thuộc về CQĐT, VKS, Tòa án. Tuy nhiên, theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp thì phải “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”; và tranh tụng tại phiên tòa phải được coi là khâu đột phá. Với định hướng này cần cân nhắc có nên giao trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự cho Tòa án hay không. Nếu phải thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự liệu có ảnh hưởng đến chức năng xét xử của Tòa án và có lấn sân sang chức năng công tố không. Vì vậy, thiết nghĩ không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án cho Tòa án, trong trường hợp phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể kiến nghị VKS ra quyết định khởi tố.
– Nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” (Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015). Nguyên tắc này quy định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo quy định này thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT, VKS, Tòa án. Tuy nhiên, với định hướng phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng như Nghị quyết số 49 Bộ Chính trị đã nêu thì nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm này thuộc chức năng của CQĐT và VKS. Mặt khác, việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án và phán quyết của mình. Vì vậy, nguyên tắc này cũng nên sửa đổi theo hướng Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm.
Thứ tư, cần quy định VKS chỉ thực hiện một chức năng duy nhất là chức năng công tố. Tại phiên tòa sơ thẩm, VKS chỉ có nhiệm vụ thực hành quyền công tố để bảo vệ cáo trạng của mình. Điều này phù hợp với nguyên tắc tranh tụng, phân định rõ chức năng của các chủ thể và đảm bảo sự bình đẳng giữa hai chức năng buộc tội và gỡ tội về địa vị pháp lý. Việc bỏ chức năng kiểm sát xét xử tại phiên tòa của VKS sẽ góp phần giúp HĐXX độc lập, khách quan hơn khi xét xử.
Thứ năm, luật sư, người bào chữa là những người thể hiện cao nhất vai trò của tranh tụng. Trong Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật hiện hành chưa xác định rõ tư cách tố tụng của
2. Một số kiến nghị khác:
Thứ nhất, nâng cao trình độ, năng lực của các chủ thể tham gia thực hiện nguyên tắc tranh tụng
Con người là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của tất cả các hoạt động xã hội. Do đó, con người sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của các hoạt động tranh tụng tại Tòa án. Đầu tư cho yếu tố con người phải đầu tư cả về nội dung bên trong và những giá trị vật chất bên ngoài.
Những yếu tố bên trong bao gồm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết pháp luật của tất cả các chủ thể khi tham gia vào quy trình tố tụng. Đối với các chủ thể tiến hành tố tụng, bên cạnh việc nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến thức nghề nghiệp và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp thì họ thực sự cần phải có tinh thần trách nhiệm, có ý thức bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, việc kiện toàn đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án, Kiểm sát viên Viện kiểm sát, Điều tra viên và đội ngũ luật sư là yếu tố cần thiết để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được thực hiện có hiệu quả.
– Đối với việc nâng cao trình độ của đội ngũ Kiểm sát viên.
Đội ngũ KSV của ngành VKSND tỉnh Đắk Lắk còn trẻ, thiếu về số lượng và kinh nghiệm thực tiễn nên việc quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện để KSV có phẩm chất đạo đức, trách nhiệm đối với công việc là thực sự cần thiết. VKS địa phương cần tăng cường công tác sơ kết việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, thường xuyên tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cử cán bộ tham gia tập huấn các lớp bồi dưỡng chuyên sâu do VKS cấp trên tổ chức để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
Kiểm sát viên cần phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, tích cực nghiên cứu các văn bản pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án kỹ lưỡng và có khoa học, kết hợp các kỹ năng khác để việc tranh tụng tại phiên tòa đạt hiệu quả hơn. Đặc biệt phải trang bị các kỹ năng để luôn chủ động trong việc xét hỏi và thẩm tra các tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, kết hợp với việc xét hỏi phải phân tích lập luận làm rõ sự không hợp lý trong ý kiến của luật sư bào chữa và bị cáo đưa ra để bảo vệ bản cáo trạng. Phải rèn luyện các kỹ năng luận tội, đối đáp thể hiện sự dân chủ, khách quan và tôn trọng những người tham gia tố tụng.
Các cơ quan hữu quan cần phối hợp chặt chẽ với nhau để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ KSV các cấp về kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Có như vậy mới kịp thời trang bị cho đội ngũ KSV những kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài trong giai đoạn mới. Về tổ chức bộ máy của VKS, chức năng của VKS cần sớm tổ chức VKS theo mô hình Viện công tố với chức năng duy nhất trong TTHS là thực hành quyền công tố (buộc tội), bảo đảm cho các Công tố viên hoạt động một cách khách quan, không thiên vị và trên cơ sở pháp luật. Đồng thời nhằm xây dựng đội ngũ KSV “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”; từ đó tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ trong ngành kiểm sát nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần
– Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “Tòa án được xác định là trung tâm của hệ thống tư pháp, trong đó hoạt động xét xử giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng nhất”. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, HTND trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng nền pháp chế công bằng, dân chủ, văn minh của Nhà nước ta. Cụ thể là:
Xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh vững vàng. Trong khi xét xử, Thẩm phán phải nhận thức đúng vai trò của mình là người điều khiển phiên tòa. Do đó, yêu cầu Thẩm phán phải bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Chẳng hạn khi xét hỏi thì HĐXX phải đặt câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, không hỏi các câu hỏi mang tính định tội, chung chung, hay câu hỏi mang tính mớm cung, ép cung đối với bị cáo; khi tranh luận Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận của các bên, phải đảm bảo cho KSV, luật sư, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác bình đẳng với nhau trong việc tranh luận, trình bày ý kiến, yêu cầu của mình, đặc biệt phải yêu cầu KSV tranh luận hết các ý kiến của luật sư, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác nếu KSV có ý né tránh, không tranh luận. Do vậy, TAND tối cao, TAND địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ xét xử và kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự cho đội ngũ Thẩm phán.
Bên cạnh đó cần có biện pháp xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trình độ, năng lực của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số lượng không đủ, công việc quá tải, áp lực công việc đè nặng thì hiệu quả chắc chắn không cao. Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ cho Thẩm phán trước và sau khi bổ nhiệm, công việc này cần tiến hành thường xuyên. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử chuyên sâu cho thẩm phán đối với các vụ án trong các lĩnh vực tham nhũng, chứng khoán, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, xây dựng …. Bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác thì việc giáo dục nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Cần chú ý đến văn hóa ứng xử khi điều khiển tranh tụng của thẩm phán tại phiên tòa. Vấn đề này tuy không được điều chỉnh bởi pháp luật nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của phiên tòa cũng như uy tín, vị thế của thẩm phán nói riêng, của ngành Tòa án nói chung.
Đối với Hội thẩm nhân dân là đại diện cho người dân tham gia vào thành phần HĐXX. Do đó, cần tăng cường tổ chức các đợt tập huấn cho Hội thẩm nhân dân về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đặc biệt đối với các vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Hội thẩm nhân dân cần nhận thức được vai trò của mình trong hoạt động xét xử vụ án hình sự để có thể dành thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia xét hỏi, giáo dục bị cáo tại phiên tòa; đồng thời chủ động nêu quan điểm và quyết định khi nghị án.
Bên cạnh đó, cần có chương trình kế hoạch thanh tra, kiểm tra, tổng kết thực tiễn công tác xét xử, tập huấn nghiệp vụ của TAND. Vì qua công tác kiểm tra, giám sát có thể phát hiện được những sai lầm trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cần thiết phải hủy để điều tra, truy tố, xét xử lại. Qua công tác kiểm tra, kết luận kiểm tra còn tạo điều kiện cho Thẩm phán học hỏi, rút kinh nghiệm về công tác xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự.
– Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ luật sư.
Đối với luật sư, cần phải có một quy trình đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề đặc biệt để nâng cao vai trò và lòng tin của khách hàng đối với luật sư. Phân loại luật sư theo hướng luật sư chuyên môn theo lĩnh vực, luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng. Đối với những người tham gia tố tụng khác, trước khi bắt đầu một vụ, việc cụ thể, họ cần được tư vấn kiến thức pháp lý cơ bản của một quy trình tố tụng. Nhiệm vụ tư vấn này được trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện là tốt nhất. Một sự tư vấn miễn phí, đầy đủ và chính thống sẽ làm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể tham gia tố tụng trước khi bắt đầu vụ án. Bên cạnh đó, bản thân các luật sư phải thường xuyên trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề để đáp ứng nhu cầu xã hội đặt ra. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có sự chọn lọc từ khâu đầu vào của các cơ quan tiến hành tố tụng và phải nghiêm khắc loại bỏ những đối tượng làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của công lý, có những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Quá trình đào tạo của các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp cũng phải được đổi mới theo hướng nâng cao khả năng hội nhập với thế giới và khả năng tiếp cận, xử lý các tình huống thực tế. Cần loại bỏ những phương pháp đào tạo nặng về tính lý luận, xa rời thực tế của các cơ sở đào tạo hiện nay.
Thứ hai, đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người tiến hành tố tụng
Để hoạt động xét xử, hoạt động tranh tụng của Thẩm phán, KSV có chất lượng và hiệu quả, cần đảm bảo đủ cơ sở vật chất cần thiết về chế độ tiền lương, trụ sở, trang thiết bị làm việc, phương tiện kỹ thuật…Ở một số nước đang phát triển như Brazil lương thẩm phán cao gấp 33 lần mức lương trung bình; tại Ecuador là 18 lần; tại Peru là 14 lần… Với sự đảm bảo về vật chất này sẽ hạn chế được tối đa những tác động tiêu cực đối với Thẩm phán trong vấn đề độc lập xét xử.
Do vậy, bên cạnh việc đầu tư cho các yếu tố bên trong, còn phải đảm bảo các yếu tố về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ chính sách cho chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Cụ thể, hiện nay công chức Tòa án, Viện kiểm sát đang được đánh đồng là công chức nói chung theo luật cán bộ, công chức, nên dẫn đến việc chi trả tiền lương và các chính sách khác cũng được đánh đồng như vậy. Trong khi đó, những người tiến hành tố tụng đang phải gánh một khối lượng công việc và trách nhiệm khi tiến hành tố tụng rất lớn, đòi hỏi phải có những quy định về tiền lương và chế độ, chính sách mang tính đặc thù đối với từng chủ thể trong quy trình tố tụng đủ để đảm bảo chăm lo tốt cho đời sống vật chất và tinh thần, quyết tâm đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc của cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay cũng chưa được quan tâm đúng mức, các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xét xử vẫn còn rất lạc hậu, việc đầu tư xây dựng các công trình, trang thiết bị làm việc và bố trí phòng xét xử uy nghiêm, hiện đại, thư viện pháp luật dành riêng cho hoạt động xét xử và tất cả những chủ thể tham gia tố tụng, cũng chưa có. Do đó, việc cung cấp và trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tranh tụng cũng rất cần thiết nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho yếu tố con người hoàn thành vai trò của mình.
Thứ ba, nâng cao nhận thức về thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm trong các phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự được thực hiện thì cần phải có sự nhận thức đúng đắn vấn đề của nó, phải làm cách nào để thực hiện tranh tụng phải bắt buộc như các thủ tục khác tại phiên tòa. Sự nhận thức này không chỉ cần thiết đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà còn đối với tất cả những chủ thể khác trong xã hội.
Để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ngày càng được hoàn thiện từ khâu xây dựng các quy định của pháp luật đến khâu áp dụng trên thực tiễn, đòi hỏi các nhà lập pháp phải đổi mới nhận thức, tư duy về tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng để xây dựng thống nhất hệ thống các quy phạm pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa. Sự nhận thức đúng đắn của các nhà làm luật khi ban hành các quy định của pháp luật về tranh tụng là khâu quan trọng quyết định đến quá trình áp dụng trên thực tế của nguyên tắc này trong xét xử các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, các cơ quan, những người tiến hành tố tụng phải nhận thức được vai trò, vị trí của mình thì việc áp dụng pháp luật về tranh tụng mới đạt được hiệu quả. Các chủ thể tham gia tố tụng cần nhận thức đúng đắn về quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Từ đó, sẽ giúp họ chủ động tham gia tranh tụng, tránh tình trạng ép cung, mớm cung hay bức cung nhục hình, làm giảm tình trạng xét xử oan sai người vô tội, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Ngoài ra, tất cả mọi người trong xã hội cần phải hiểu và nhận thức được vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, để góp phần thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình để có thể tự bảo vệ được chính bản thân mình. Do đó, việc nâng cao nhận thức về thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của quá trình áp dụng nguyên tắc trên thực tế. Các chủ thể tiến hành cũng như chủ thể tham gia tố tụng cần phải hiểu được vị trí, vai trò quan trọng của tranh tụng trong quá trình tố tụng để có thể thực hiện hết nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của mình.
Đồng thời, việc tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nhận thức và thực hiện các quy định của pháp luật. Trong tố tụng hình sự, bằng việc nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của Toà án, người bào chữa, KSV, các nguyên tắc bảo đảm tranh tụng cũng góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Để thực hiện được điều đó thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”.
Vấn đề nâng cao hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hiện nay đang được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo việc thực hiện theo yêu cầu của Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Thiết nghĩ, để đạt được mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra ngoài sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng thì cần phải có sự chung tay nỗ lực của toàn bộ các cấp các ngành nhất là các cơ quan pháp luật mà trước hết là từ mỗi cán bộ ngành Toà án nói riêng.