Quy định để kiểm soát hoạt động đầu tư núp bóng tại Việt Nam? Các quy định xử phạt, trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hoạt động đầu tư núp bóng tại Việt Nam?
Mục lục bài viết
1. Nguồn luật điều chỉnh và các khái niệm:
Là một bộ phận của pháp
Mốc thời gian năm 2005, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO, hàng loạt các đạo luật được sửa đổi để phù hợp với cam kết mở cửa thị trường, trong đó có Luật đầu tư. Lần đầu tiên một đạo luật điều chỉnh về đầu tư hoàn chỉnh được ra đời điều chỉnh toàn bộ hoạt động đầu tư bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là các luật doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán, Luật sở hữu trí tuệ, Luật chứng khoán 2006,
Trong quá trình thực hiện, Luật đầu tư cũng có qua lần sửa đổi mới vào năm 2014. Và văn bản pháp luật điều chỉnh hiện hành là Luật đầu tư 2020 số 61/2020/QH14 do Quốc hội Khóa 14 thông qua ngày 17/06/2020. Đồng thời được hướng dẫn bởi Nghị định 31/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/3/2021; Nghị định 29/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/3/2021 quy định về trình tự, thủ tục thẩm định Dự án quan trọng Quốc gia và Giám sát, đánh giá đầu tư. Cùng với đó Luật doanh nghiệp 2020 ra đời cũng hỗ trợ việc kiểm soát nội bộ doanh nghiệp,
Tất cả những Luật, bộ luật này đều góp phần giúp Việt Nam kiểm soát hoạt động đầu tư nói chung và kiểm soát hoạt động đầu tư “núp bóng” của nước ngoài nói riêng.
Một số khái niệm trong pháp luật đầu tư Việt Nam
Luật Đầu tư 2020 quy định các chủ thể thực hiện đầu tư tại Việt Nam bao gồm: nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó: (i) nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ động; (ii) nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; và (iii) tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
Vốn đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam được định nghĩa chung là tiền và tài sản khác theo quy định của pháp luật về dân sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh (Khoản 23 Điều 3 Luật Đầu tư 2020).
Luật Đầu tư 2020 hiện hành chỉ có khái niệm “Đầu tư kinh doanh” thay vì “đầu tư” hay “hoạt động đầu tư”, theo đó “đầu tư kinh doanh” là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh (Khoản 3 Điều 3).
2. Cơ quan quản lý, cơ chế kiểm soát và thủ tục đầu tư:
2.1. Cơ quan quản lý, cơ chế kiểm soát:
Thứ nhất, cơ quan quản lý Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và Sở kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong từng trường hợp thuộc thẩm quyền. Ngoài ra, các cơ quan của Ủy ban nhân dân tỉnh, Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội là ba cơ quan theo cấp thực hiện xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư theo thẩm quyền. Như vậy, có sự phân cấp và tách biệt rõ ràng về thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chấp thuận chủ trương đầu tư theo đơn vị hành chính. Một mặt, do các địa phương nắm bắt tình hình đầu tư cũng như các điều kiện đầu tư, vì vậy việc thẩm định chấp thuận nhanh chóng và phù hợp.
Thứ hai, cơ chế kiểm soát Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện báo cáo theo chiều dọc về tình hình các dự án đầu tư tại Việt Nam theo Điều 72 Luật Đầu tư 2020. Trong đó, Điều 69 Luật Đầu tư 2020 quy định rõ: (1) Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. (2) Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. (3) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. (4) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đăng ký đầu tư, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Cơ chế khiếu nại, tố cáo
Theo quy định tại Điều 86 Luật đầu tư 2005 quy định: cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo và khởi kiện; tổ chức có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trong hoạt động đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật. Và khoản 2, Điều 67 Luật Đầu tư 2014 quy định cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ, giải quyết vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư trong thực hiện hoạt động đầu tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư. Luật đầu tư 2020 ra đời và có hiệu lực, quy định về khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đầu tư không được đề cập tới. Và cũng không còn bất kỳ điều khoản nào quy định. Theo đó, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đầu tư sẽ thực hiện theo Luật khiếu nại 2011, theo Luật tố cáo 2018 và theo các văn bản pháp luật liên quan.
2.2. Thủ tục đầu tư:
Điều 21 Luật đầu tư 2020 quy định có các loại hình đầu tư gồm: (i) đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; (ii) đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp; (iii) thực hiện dự án đầu tư; (iv) đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC; và (v) các hình | thức đầu tư, loại hình tổ chức kinh tế mới theo quy định của Chính Phủ. Theo đó, mọi nhà đầu tư trong nước, ngoài nước đều có các hình thức đầu tư như nhau, không có sự phân biệt. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, nhà đầu tư nước ngoài (có yếu tố nước ngoài) phải đáp ứng những rào cản pháp lý riêng khi tiếp cận thị trường Việt Nam như giới hạn tỷ lệ sở hữu và thủ tục xin giấy phép để hoạt động đầu tự tại Việt Nam.
Đối với các nhà đầu tư trong nước chỉ cần thực hiện các thủ tục thành lập doanh nghiệp và khi thực hiện dự án thuộc danh mục dự án cần xin chấp thuận chủ trương đầu tư thì phải xin chấp thuận. Trình tự thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tự này giống với áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài.
Các thủ tục đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam gồm: (1) Đối với nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo hình thức đầu tư thành lập doanh nghiệp thực hiện theo các bước: bước 1: Xin chấp thuận chủ trương đầu tư (đối với dự án cần xin chấp thuận theo quy định của Luật Đầu tư – không phải mọi trường hợp); bước 2: Xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; bước 3: Đăng ký thành lập doanh nghiệp. (ii) Đối với đầu tư theo hình thức BCC gồm bước 1 và bước 2 giống với đầu tư | theo hình thức thành lập doanh nghiệp. (iii) Đối với hình thức đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác tùy theo trường hợp cụ thể về ngành nghề, tỷ lệ sở hữu mà nhà đầu tư nước ngoài cần thực hiện đăng ký tại Sở kế hoạch và Đầu tư trước khi hoàn tất và thay đổi trong đăng ký doanh nghiệp.
Điều 23 Luật Đầu tư 2020 cũng quy định một số trường hợp mà tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải thực hiện các thủ tục đầu tư giống như đối với nhà đầu tư nước ngoài gồm: (a) có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh; (b) có tổ chức kinh tế quy định tại mục a này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; (c) có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Với mức kiểm soát 50% vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức) theo pháp luật doanh nghiệp thì nhà đầu tư nước ngoài đã nắm quyền kiểm soát công ty.
Vì vậy, mọi quyết định của tổ chức kinh tế đó sẽ chịu sự chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc phân loại áp dụng thủ tục này đối với các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài theo Điều 23 Luật Đầu tư 2020 nhằm nắm bắt và theo dõi dòng vốn nước ngoài có khả năng ảnh hưởng chi phối hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt Nam, bởi: các tổ chức kinh tế có quốc tịch Việt Nam nhưng có vốn đầu tư nước ngoài thực chất vẫn nằm trong sự chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, nguy cơ ảnh hưởng từ nước ngoài là hiện hữu và cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.
Thứ nhất, về thủ tục xin chấp thuận chủ chương đầu tư được quy định tại Mục 2. Chương 3 Luật Đầu tư 2020.
Thủ tục này áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài đối với thực hiện các dự án quan trọng với các tiêu chí về (1) dự án đầu tư ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; (i) dự án liên quan đến quy hoạch đất đai; (ii) liên quan đến di dân; (iv) một số lĩnh vực quan trọng: hàng không, chế biến dầu, casino,… Các cơ quan có thẩm quyền được phân cấp theo quy mô, lĩnh vực để phê duyệt chủ trương đầu tư.
Ngoài ra, đối với nhà đầu tư nước ngoài còn thêm 2 trường hợp cần xin chấp thuận chủ trương đầu tư là (v) đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng, trồng rừng, xuất bản, báo chí; và (vi) dự án thực hiện tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới; xã, phường, thị trấn ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng cần xin chấp thuận đối với mục (v).
Thủ tục này cho phép cơ quan nhà nước xem xét nhiều yếu tố trong hoạt động đầu tư của cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài về: tính khả thi của dự án, tính hợp pháp của dự án, và sàng lọc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành nghề hạn chế tiếp cận thị trường, các ngành nghề chưa được tiếp cận thị trường của Việt Nam. Thông qua đó cũng theo dõi được các nguồn vốn đầu tư trong và nước ngoài.
Thứ hai, về thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Thủ tục này được quy định tại Mục 3 Chương 3 Luật Đầu tư 2020, theo đó chỉ áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài, một số tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài quy định tại Điều 23 của Luật này. Thủ tục này không áp dụng đối với các nhà đầu tư trong nước.
Bản chất của giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là ghi nhận tư cách chủ thể của nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia hoạt động đầu tư tại Việt Nam, giúp cho cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt được tình hình hoạt động thực tế các chủ thể nước ngoài hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, đối với thực hiện dự án BCC thì thông qua thủ tục này cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể xem xét hợp đồng, trên cơ sở xem xét các quyền, nghĩa vụ liên quan của các bên cũng như đánh giá tính ảnh hưởng của nhà đầu tư nước ngoài lên doanh nghiệp và là một nguồn xem xét về giao dịch dân sự giả tạo.
Thứ ba, về thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế
Thủ tục này chỉ áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể đối với nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện khi đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác. Thủ tục đăng ký này không áp dụng đối với nhà đầu tư trong nước.
Thủ tục đăng ký được quy định tại Điều 26 Luật đầu tư 2020 với ba mục đích chính (1) kiểm tra điều kiện về tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài; (2) nắm được các tổ chức có sự kiểm soát trực tiếp gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài; và (3) xem xét về an ninh quốc phòng.
Đặc biệt xem xét khoản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới; xã, phường, thị trấn ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh (Điểm c Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư 2020) là một quy định bổ sung so với Luật đầu tư 2014. Do những nguy hại của việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong những lĩnh vực ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, các tiêu chí ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng trong điều luật này chưa có và cũng chưa có hướng dẫn cụ thể, điều này khiến cho các hoạt động thẩm định khó đảm bảo tính công bằng giữa các nhà đầu tư nước ngoài cũng như việc tiến hành mất nhiều thời gian.
Một nội dung quan trọng là, căn cứ theo Khoản 4 Điều 66 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp tại khu vực liên quan đến An ninh quốc phòng thì phải lấy ý kiến của Bộ Quốc Phòng và Bộ Công An về việc đáp ứng điều kiện bảo đảm quốc phòng, an ninh. Như vậy, tiêu chí về quốc phòng an ninh chưa được cụ thể hóa và phụ thuộc vào tham mưu của Bộ Quốc Phòng và Bộ Công
3. Quản lý dòng vốn đầu tư:
Bắt đầu từ Luật đầu tư 2014 đến Luật đầu tư 2020 đã không còn khái niệm “đầu tư trực tiếp” và “đầu tư gián tiếp”, tuy nhiên Ngân hàng nhà nước Việt Nam – cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia đã ban hành các văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại hình đầu tư này. Các quy định hiện hành buộc các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ mở riêng tài khoản vốn đầu tư khác nhau. Cụ thể:
(i) Dòng tiền đầu tư gián tiếp:
Mọi hoạt động đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài phải được thực hiện thông qua một tài khoản vốn đầu tư gián tiếp mở tại một ngân hàng được phép. Thông tư 05/2014/TT-NHNN ngày 12/03/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam cũng quy định về báo cáo giám sát đối với hoạt động của tài khoản vốn đầu tư gián tiếp.
(ii) Dòng tiền đầu tư trực tiếp:
Thông tư 06/2014/TT – NHNN ngày 26/06/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Theo nội dung thông tư này, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài tham gia hợp đồng BCC, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp thực hiện dự án PPP (gồm: nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp thực hiện dự án PPP trong trường hợp không thành lập doanh nghiệp dự án) phải mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một ngân hàng được phép để thực hiện các giao dịch thu, chi hợp pháp bằng ngoại tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; tương ứng với loại ngoại tệ thực hiện góp vốn đầu tư, chỉ được mở một tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng loại ngoại tệ đó tại một ngân hàng được phép; trường hợp nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hợp đồng BCC hoặc trực tiếp thực hiện nhiều dự án PPP, nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp riêng biệt tương ứng với mỗi hợp đồng BCC, dự án PPP.
(iii) Dòng tiền vay nợ nước ngoài
Ngân hàng nhà nước ban hành Thông tư 03/2016/TT-NHNN về quản lý ngoại hối vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, trong đó quy định cụ thể:
Bắt buộc đăng ký
Các khoản vay sau đây bắt buộc phải thực hiện đăng ký với Ngân hàng Nhà nước: (1) khoản vay trung, dài hạn nước ngoài; (2) khoản vay ngắn hạn được gia hạn mà tổng thời hạn của khoản vay là trên 01 năm; và (3) khoản vay ngắn hạn không có hợp đồng gia hạn nhưng còn dư nợ gốc tại thời điểm tròn 01 năm kể từ ngày rút vốn đầu tiên, trừ trường hợp Bên đi vay hoàn thành việc trả nợ khoản vay trong thời gian 10 ngày kể từ thời điểm tròn 01 năm kể từ ngày rút vốn đầu tiên.
Điều kiện đăng ký
Điều kiện để đăng ký khoản vay thành công cũng được đặt ra để kiểm soát mục đích khoản vay. Trong bộ hồ sơ đăng ký khoản vay mà bên đi vay gửi Ngân hàng nhà nước bắt buộc phải có bản sao (có xác nhận của Bên đi vay) hoặc bản chính văn bản chứng minh mục đích vay bao gồm: (1) Phương án sản xuất, kinh doanh, dự án đầu tư sử dụng vốn vay nước ngoài được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (i) Phương án cơ cấu lại các khoản nợ nước ngoài của bên đi vay được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hoặc báo cáo việc sử dụng khoản vay nước ngoài ngắn hạn ban đầu đáp ứng quy định về điều kiện vay nước ngoài ngắn hạn (kèm theo các tài liệu chứng minh) và phương án trả nợ đối với khoản vay nước ngoài.
Hạn mức vay:
Hiện nay, ngân hàng nhà nước chỉ áp dụng hạn mức vay nước ngoài đối với trường hợp bên đi vay để tham gia góp vốn đầu tư trực tiếp (chỉ áp dụng vay trung và dài hạn), theo đó hạn mức vay là tối đa không vượt quá tỷ lệ góp vốn của bên đi vay trong doanh nghiệp mà bên đi vay tham gia góp vốn thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đó.
Kiểm soát dòng tiền
Đối với bên đi vay là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: (i) Đối với khoản vay trung, dài hạn nước ngoài: tài khoản vay, trả nợ nước ngoài là tài khoản vốn đầu tư trực tiếp. (ii) Đối với khoản vay ngắn hạn nước ngoài: bên đi vay có thể sử dụng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp hoặc tài khoản vay, trả nợ nước ngoài (không phải là tài khoản vốn đầu tư trực tiếp) để thực hiện các giao dịch thu, chi liên quan đến khoản vay nước ngoài. Tài khoản vay được mở hợp lệ có thể dùng cho một hoặc nhiều khoản vay nước ngoài ngắn hạn.
Đối với bên đi vay không phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải mở tài khoản vay, trả nợ nước ngoài tại ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản để thực hiện các giao dịch chuyển tiền liên quan đến khoản vay nước ngoài (rút vốn, trả nợ gốc, nợ lãi). Mỗi khoản vay nước ngoài chỉ được thực hiện qua một ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản. Bên đi vay có thể dùng một tài khoản cho một hoặc nhiều khoản vay nước ngoài.
Báo cáo giám sát:
Bên đi vay phải thực hiện báo cáo tình hình thực hiện các khoản vay ngắn, trung và dài hạn định kỳ hàng quý cho Chi nhánh ngân hàng, và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, kiểm soát hoạt động vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tại Việt Nam khá đầy đủ và chặt chẽ với các quy định bắt buộc đăng ký, thẩm định hồ sơ, đặc biệt có giới hạn khoản vay, quan tâm đến mục đích vay và không có sự phân biệt khoản vay giữa các ngành nghề. Dòng tiền đầu tư vào Việt Nam được kiểm soát thông qua nhiều loại tài khoản (i) tài khoản vốn đầu tư trực tiếp; (ii) tài khoản vốn đầu tư gián tiếp; và (iii) tài khoản vay, trả nợ nước ngoài.
4. Báo cáo giám sát:
Điều 72 Luật Đầu tư Việt Nam 2020 quy định về chế độ báo cáo hoạt động đầu tư tại Việt Nam, theo đó không phân biệt vốn đầu tư nước ngoài hay vốn trong nước, các nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam đều phải thực hiện báo cáo. Báo cáo được thực hiện bằng quý, hằng năm gửi cho cơ quan đăng ký đầu tư và cơ quan thống kê trên địa bàn về tình hình thực hiện dự án đầu tư, gồm các nội dung: vốn đầu tư thực hiện, kết quả hoạt động đầu tư kinh doanh, thông tin về lao động, nộp ngân sách nhà nước, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, xử lý và bảo vệ môi trường, các chỉ tiêu chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động, việc báo cáo bằng văn bản và thông qua hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư. Ngoài ra, điều luật này cũng thiết lập chế độ báo cáo các cấp của cơ quan hành chính nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.
Điều 31 Luật doanh nghiệp 2020 quy định về thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi có thay đổi đối với a) Ngành, nghề kinh doanh; b) Cổ đông sáng lập và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần, trừ trường hợp đối với công ty niêm yết; c) Nội dung khác trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Điểm b Điều Luật này chủ yếu nhắm tới báo cáo quyền kiểm soát trực tiếp doanh nghiệp.
5. Trách nhiệm pháp lý:
5.1. Đối với hành vi gian dối vốn đầu tư:
Quy định về xác định giá trị vốn đầu tư; giám định giá trị vốn đầu tư, giám định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ là quy định mới được Luật đầu tư 2020 ghi nhận. Theo đó Điều 45 quy định nhà đầu tư chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật; và tự xác định giá trị vốn đầu tư của dự án đầu tư sau khi dự án đầu tư đưa vào khai thác, vận hành. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền yêu cầu thực hiện giám định độc lập giá trị vốn đầu tư, chất lượng và giá trị của máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ sau khi dự án đưa vào khai thác, vận hành.
Việc cho phép các cơ quan nhà nước thực hiện định giá trị tài sản nhằm kiểm soát giá trị đầu tư thực, tránh những thất thoát của nhà nước, điều này áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định 31/2021/ NĐ-CP hướng dẫn chi tiết các trường hợp mà cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tiến hành giám định khi: (a) Có căn cứ xác định nhà đầu tư kê khai thuế không trung thực, chính xác, đầy đủ về giá trị vốn đầu tư theo quy định của pháp luật về thuế và quản lý thuế; (b) Có căn cứ xác định nhà đầu tư có dấu hiệu vi phạm về ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong quá trình thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Như vậy, luật đầu tư 2020 đã thiết lập cơ chế cho phép các cơ quan có thẩm quyền xác định giá trị đầu tư, việc xác định này áp dụng đối với cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó nhằm loại bỏ các trường hợp các nhà đầu tư cố ý xác định sai giá trị nhằm hưởng lợi về thuế và cũng có thể là các trường hợp xác định nhằm sai lệch về cơ cấu vốn sở hữu (dấu hiệu của đầu tư “núp bóng” của nước ngoài).
5.2. Đối với hành vi đầu tư trên cơ sở giao dịch dân sự giả tạo:
Điều 48 Luật đầu tư 2020 quy định về các trường hợp chấm dứt dự án đầu tư, trong đó đặc biệt có trường hợp nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở giao dịch dân sự giả tạo theo quy định của pháp luật về dân sự. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với Luật Đầu tư 2014 và là một vấn đề khá phức tạp để triển khai trên thực tiễn. Điều 59 Nghị định 31/2001/NĐ – CP của Chính Phủ về hướng dẫn Luật đầu tư cho phép cơ quan đăng ký đầu tư, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền đề nghị Tòa án cấp có thẩm quyền tuyên bố vô hiệu giao dịch dân sự do giả tạo trong quá trình thực hiện dự án đầu tư của nhà đầu tư để làm cơ sở chấm dứt toàn bộ hoặc chấm dứt một phần hoạt động của dự án đầu tư.
Đây là một quy định nhằm đến các hoạt động đầu tư “núp bóng” của nước ngoài nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung, các giao dịch giả tạo hoàn toàn có khả năng được tạo lập bởi các nhà đầu tư nước ngoài” và nhà đầu tư Việt Nam, trong đó giao dịch thực chất là bên nước ngoài nắm quyền kiểm soát, quản lý, điều hành, quyết định dự án, trong khi bên Việt Nam đứng tên danh nghĩa quản lý. Điều này cũng cho thấy sự thận trọng của Việt Nam khi bắt buộc phải thông qua quá trình tố tụng dân sự làm cơ sở để cơ quan đăng ký đầu tư đưa ra quyết định.
Ngoài ra, Khoản 3 Điều 48 Luật Đầu tư có đưa ra hậu quả của việc chấm dứt thực hiện dự án trong trường hợp này, đó là cho phép nhà đầu tư tự thanh lý dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về thanh lý tài sản trừ trường hợp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì phải tuân thủ pháp luật liên quan.
Như vậy, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Các cơ quan hành pháp chuyên môn thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý đầu tư theo các đơn vị hành chính. Các cơ quan này thực hiện báo cáo, giám sát theo chiều dọc với cơ chế phối hợp. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định về cơ chế khiếu nại, tố cáo nhắm tới các hành vi sai phạm của cá nhân, tổ chức và cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động đầu tư.
Về thủ tục đầu tư có sự phân biệt với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt xem xét đến nguồn gốc vốn đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài được yêu cầu thực hiện nhiều thủ tục hơn so với nhà đầu tư trong nước, ngoài các mục đích về (1) kiểm tra các điều kiện về tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài; (2) nắm được các tổ chức có sự kiểm soát trực tiếp, gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài; một nội dung quan trọng đó xem xét tiêu chí về an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, tiêu chí về quốc phòng, an ninh chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Về dòng vốn đầu tư, pháp luật Việt Nam yêu cầu dòng tiền đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài phải thông qua các loại tài khoản đầu tư tương ứng với ba loại tài khoản. Các khoản vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam không có sự phân biệt về yêu cầu, thủ tục đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác nhau, đăng ký bắt buộc đối với các khoản vay trung và dài hạn nước ngoài và quan tâm đến mục đích vay.
Về báo cáo giám sát: Luật đầu tư 2020 quy định tất cả các nhà đầu tư thực hiện dự án tại Việt Nam phải báo cáo định kỳ hằng quý, hằng năm. Tuy nhiên, các nội dung báo cáo chủ yếu liên quan đến hiệu quả hoạt động, tiến độ hoạt động và các chấp hành pháp luật Việt Nam, không có quy định về báo cáo người kiểm soát thực tế của doanh nghiệp.
Về trách nhiệm pháp lý: Luật đầu tư 2020 có các nội dung mới so với Luật đầu tư 2014 đó là: (1) cho phép cơ quan có thẩm quyền thực hiện định giá tài sản là máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ và (2) quy định về vô hiệu các hành vi đầu tư trên cơ sở giao dịch dân sự giả tạo, chế tài đặt ra đó là các dự án này sẽ bị chấm dứt bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư tự thanh lý tài sản trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.