Vấn đề “người phạm tội theo khoản 2, khoản 3 có được hưởng án treo hay không?” là nội dung thường gây tranh luận trong thực tiễn xét xử. Việc xem xét cho hưởng án treo không chỉ phụ thuộc vào khung hình phạt được áp dụng (khoản 1, 2 hay 3) mà còn phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.
Mục lục bài viết
1. Bị định khung khoản 2, khoản 3 được xử án treo không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (sửa đổi tại Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo) có quy định cụ thể về điều kiện để người bị kết án phạt tù có thể được hưởng án treo.
Theo đó, người bị xử phạt tù có thể sẽ được xem xét cho hưởng án treo khi người đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Đã bị xử phạt tù không vượt quá khoảng thời gian 03 năm tù;
- Người bị xử phạt tù có nhân thân phù hợp với quy định của pháp luật, tức là ngoài lần phạm tội này thì người phạm tội đã chấp hành đầy đủ chính sách pháp luật, thực hiện và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú và nơi làm việc;
- Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nên căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đồng thời không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự căn cứ theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015;
- Người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng, có địa điểm cụ thể, nơi làm việc ổn định để cơ quan có thẩm quyền, tổ chức có thẩm quyền dễ dàng giám sát và giáo dục;
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét thấy không cần phải áp dụng biện pháp bắt chấp hành hình phạt tù, người phạm tội hoàn toàn có khả năng tự cải tạo, việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội và không gây nguy hiểm cho cộng đồng, việc cho các đối tượng đó vừa dán treo cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Theo đó, người bị xử phạt tù hoàn toàn có thể được xem xét cho hưởng án treo khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện nêu trên.
Trong trường hợp, nếu bị định khung hình phạt tại khoản 2 hoặc khoản 3 thì đó mới chỉ là việc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Tòa án) xác định khung hình phạt, Tòa án chưa ra quyết định về hình phạt cụ thể. Có những trường hợp, bị cáo bị định khung vào khoản 2 hoặc khoản 3, tuy nhiên thuộc một trong những trường hợp sau:
- Khung hình phạt đó có mức hình phạt dưới 03 năm và đã được tòa án quyết định hình phạt dưới 03 năm;
- Là khung hình phạt từ trên 03 năm tù tuy nhiên bị cáo đáp ứng đầy đủ điều kiện để được tòa án áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới khung căn cứ theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với hình phạt cuối cùng Tòa án tuyên là không vượt quá 03 năm tù;
- Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp hơn không hình phạt được áp dụng, tuy nhiên vẫn trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của Điều luật khi người phạm tội đó có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ căn cứ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015).
Như vậy có thể nói, việc bị định khung chưa phải là quyết định hình phạt cuối cùng, đó chỉ là việc xác định khung hình phạt sẽ được áp dụng đối với bị cáo.
Vì vậy, trong trường hợp bị cáo bị định khung vào khoản 2 hoặc khoản 3, tuy nhiên có nhiều tình tiết giảm nhẹ dẫn đến việc Tòa án tuyên hình phạt cuối cùng là không vượt quá 03 năm tù, đồng thời đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khác của án treo thì vẫn có thể ưđược xem xét để hưởng án treo.
Ví dụ: Hành vi gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 có mức phạt từ 02 năm đến 07 năm tù giam, cụ thể:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Có tổ chức;
- Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
- Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
- Xúi giục người khác gây rối;
- Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
- Tái phạm nguy hiểm.
Theo đó, hành vi gây rối trật tự công cộng tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 vẫn có thể được hưởng án treo nếu được Tòa án tuyên với mức hình phạt từ 02 năm đến dưới 03 năm tù giam và đáp ứng được những điều kiện còn lại của án treo.
Như vậy, để có thể xem xét được hưởng án treo hay không, không căn cứ vào khung hình phạt mà sẽ cần phải căn cứ vào mức hình phạt cuối cùng mà Tòa án tuyên.
2. Được hưởng án treo sẽ được trả tự do ngay tại phiên Tòa không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về việc trả tự do cho bị cáo. Theo đó, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây, hội đồng xét xử sẽ cần phải tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo đó đang bị tạm giam. Cụ thể như sau:
- Thông qua quá trình điều tra, nhận thấy bị cáo không có tội;
- Bị cáo thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;
- Bị cáo bị xử phạt bằng một hình phạt khác, không phải là hình phạt tù;
- Bị cáo bị xử phạt tù, tuy nhiên bị cáo đó được hưởng án treo;
- Thời hạn bị phạt tù bằng/hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ.
Như vậy: Nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác, khi bị cáo được tuyên hưởng án treo, Hội đồng xét xử cần phải tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên Tòa.
3. Được hưởng án treo thì có được hủy bỏ mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng không?
Theo quy định tại Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về các biện pháp ngăn chặn như sau:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
- Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
(1) Mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:
- Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
- Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;
- Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
- Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
(2) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngặn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.
Như vậy, khi bị cáo bị Tòa án tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì mọi biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng đối với bị cáo sẽ được hủy bỏ.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


