Khó khăn lớn nhất về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản là nhiều núi lửa, động đất, sóng thần, gây nhiều thiệt hại về người và của khi thiên tai xảy ra, gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Nhật Bản. Sau đây là bài viết về khó khăn lớn nhất về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản, mời các bạn cùng theo dõi!
Mục lục bài viết
1. Khó khăn lớn nhất về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản là:
A. bờ biển dài, khúc khuỷu, nhiều vũng, vịnh.
B. trữ lượng các loại khoáng sản không đáng kể.
C. nhiều núi lửa, động đất, sóng thần.
D. nhiều đảo lớn, nhỏ cách xa nhau.
Đáp án C
Khó khăn lớn nhất về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản là nhiều núi lửa, động đất, sóng thần, gây nhiều thiệt hại về người và của khi thiên tai xảy ra, gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế – xã hội của Nhật Bản
2. Nguyên nhân thiên tai thường xuyên xảy ra ở Nhật Bản:
– Quần đảo Nhật Bản được hình thành bởi bốn mảng (mảng Biển Philippine, mảng Thái Bình Dương, mảng Bắc Mỹ, mảng Á- Âu), và các hoạt động địa chấn và núi lửa đang diễn ra do chuyển động của các mảng. Nhật Bản thường xuyên xảy ra động đất là do Nhật Bản có đến 4 mảng va chạm vào nhau. Sự chuyển động của mảng kiến tạo không chỉ ảnh hưởng đến động đất mà còn ảnh hưởng đến núi lửa. Sự va chạm này cũng khiến magma tích trữ dưới núi lửa. Đổi lại, nhờ điều này mà Nhật Bản có nguồn suối nước nóng dồi dào. Có nhiều thí nghiệm địa nhiệt đang được tiến hành, mục đích là để tận dụng nguồn năng lượng khổng lồ này. Số trận động đất dao động khác nhau qua từng năm. Một vài thành phố chịu ít hơn 500 trận động đất, ít hơn ¼ so với bình thường, đây là một dấu hiệu xấu. Các mảng kiến tạo vẫn chuyển động nhưng năng lượng phát sinh lại không được giải phóng. Không có động đất đồng nghĩa với việc năng lượng bị tích tụ, dẫn đến khả năng xảy ra một trận động đất với quy mô đáng sợ trong tương lai.
Nhật Bản nằm dọc Vành đai lửa Thái Bình Dương. Đây là khu vực thường xuyên xảy ra động đất và núi lửa phun trào. Khu vực này có hình dạng tương tự vành móng ngựa, bao quanh lòng chảo Thái Bình Dương. Trong vành đai lửa, một số mảng kiến tạo bao gồm mảng địa tầng Thái Bình Dương và mảng kiến tạo Philipines thường xuyên phân tách và va chạm. Bề mặt Trái Đất được chia thành các mảng lớn luôn luôn di chuyển. Khi các mảng tương tác với nhau, chúng gây tác động lớn. Sự dịch chuyển của mảng kiến tạo Philipines phía dưới mảng Á – Âu có khả năng gây ra những trận động đất gần đây tại Nhật Bản.
– Núi dốc chiếm phần lớn diện tích đất liền, sông ngòi ngắn và chảy xiết. Nhật Bản nằm trong khu vực gió mùa Châu Á, lượng mưa lớn thường xảy ra vào mùa mưa và mùa bão. Bên cạnh đó các thành phố và đất nông nghiệp đều tiếp giáp với sông, bờ biển và núi lửa.
Có thể thấy, có nhiều yếu tố như địa hình, khí hậu, phương thức sử dụng đất bắt nguồn từ đó có khả năng xảy ra thiên tai và dễ bị thiệt hại lớn. Chỉ cần sống ở Nhật Bản, người dân không thể tránh khỏi những thảm họa thiên nhiên.
3. Thảm họa kép đã từng xảy ra tại Nhật Bản:
Nhà cửa đổ sập, tàu thuyền bị cuốn lên đất liền, đường xá ngập trong bùn đất và mảnh vỡ. Đó là cảnh tượng tan hoang sau khi Nhật Bản bị tấn công bởi một trong những trận động đất mạnh nhất lịch sử loài người năm 2011 tại Nhật Bản. Thế giới không thể nào quên thảm họa kép kinh hoàng xảy ra lúc hơn 14 giờ ngày 11/3/2011 tại Nhật Bản. Đúng 14h46 theo giờ đại phương, đại địa chấn Honshu độ lớn 9,1 khởi phát ngoài khơi hòn đảo Honshu ở phía Đông Bắc nước này, gây ra sóng thần cao đến 40 mét ập vào đất liền, phá hủy mọi thứ trên đường đi của nó. Theo thống kê chính thức, 15.899 người đã thiệt mạng với 2.572 người vẫn mất tích và được cho là đã chết. Trên 6.000 người bị thương. Nhiều thị trấn bị xóa sổ khỏi bản đồ. Tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima nằm gần bờ biển, sóng thần tấn công đã làm hỏng hoàn toàn các hệ thống làm mát thanh nhiên liệu hạt nhân, gây ra thảm hoạ nghiêm trọng, khiến các vùng dân cư xung quanh bị nhiễm phóng xạ. Nhiều nơi 10 năm sau con người vẫn chưa thể sinh sống trở lại.
Đại địa chấn Honshu
Tâm chấn của trận động đất được xác định ở cách thành phố Sendai 130km về phía Đông, song rung chấn mạnh mẽ của nó có thể được cảm thấy từ tận vùng Petropavlovsk-Kamchatsky (Nga), Cao Hùng (Đài Loan) và Bắc Kinh (Trung Quốc). Đây là trận động đất mạnh nhất xảy ra tại khu vực này kể từ ghi bắt đầu theo dõi dữ liệu địa chấn vào cuối thế kỷ 19. Nó cũng được coi là một trong nhất trận động đất kinh hoàng nhất trên thế giới. Thậm chí, một vệ tinh quay quanh rìa ngoài của bầu khí quyển Trái đất vào ngày hôm đó đã phát hiện ra sóng hạ âm (sóng âm tần số rất thấp) của đại địa chấn Honshu.
Sự đứt gãy đột ngột của mảng địa chất Thái Bình Dương đã làm dịch chuyển vùng nước bên trên và tạo ra một loạt các đợt sóng thần có sức hủy diệt ghê gớm. Sóng cao hàng chục mét đã nhấn chìm bờ biển cùng nhiều khu vực của thành phố Sendai, bao gồm cả sân bay và vùng ngoại ô xung quanh. Theo một số báo cáo, một làn sóng thâm nhập sâu 10 km vào đất liền, khiến con sông Natori – phân tách Sendai và thành phố Natori ở phía Nam – bị tràn bờ. Ngoài Sendai, các vùng dân cư bị ảnh hưởng nặng nhất bởi sóng thần còn có Kamaishi, Miyako, Ishinomaki, Kesennuma, Shiogama Kitaibaraki và Hitachinaka. Khi nước rút trở lại biển, chúng mang theo lượng lớn các mảnh vỡ, cũng như hàng nghìn nạn nhân của trận đại hồng thủy. Nhiều dải đất rộng lớn bị nhấn chìm dưới nước biển, biến mất khỏi bản đồ.
Xảy ra ở Nhật Bản, trận động đất đã kích hoạt cảnh báo sóng thần trên khắp lòng chảo Thái Bình Dương. Từ tâm chấn, sóng thần đổ xô từng đợt với tốc độ tiếp cận khoảng 800 km/h. Nó tạo ra những con sóng cao 3,3 – 3,6 mét dọc theo bờ biển Kauai và Hawaii và những con sóng cao 1,5 mét dọc theo đảo Shemya trong chuỗi quần đảo Aleutian. Vài tiếng sau, loạt sóng thần cao đến 2,7 mét tấn công vào bờ biển California và Oregon ở Bắc Mỹ. Cuối cùng, khoảng 18 giờ sau đại địa chấn Honshu, sóng cao 0,3 mét vẫn ập vào bờ Nam Cực và khiến một phần của Thềm băng Sulzberger bị tách vỡ.
Mất mát và thiệt hại
Theo tờ Daily Mail, dựa trên thống kê mới nhất, 15.899 người đã thiệt mạng với 2.572 người mất tích và bị cho là đã chết sau thảm họa trên. Các báo cáo ban đầu về con số thương vong do sóng thần gây ra khoảng hàng trăm người với hàng trăm người mất tích. Nhưng số liệu này đều tăng đáng kể trong những ngày tiếp theo khi tiến hành hoạt động cứu hộ. Có những cộng đồng bị xóa sổ một nửa hoặc thậm chí toàn bộ dân cư. Đa số người thiệt mạng là nạn nhân của sóng thần. Hơn 1/2 nạn nhân là người từ 65 tuổi trở lên.
Đại địa chấn Honshu cũng gây ra thiệt hại đáng kể trên một khu vực rộng lớn. Đáng chú ý là các đám cháy ở một số thành phố, bao gồm một nhà máy hóa dầu ở Sendai, một phần của thành phố Kesennuma ở tỉnh Miyagi, phía Đông Bắc Sendai, và một nhà máy lọc dầu ở Ichihara, tỉnh Chiba gần Tokyo. Tại các tỉnh Fukushima, Ibaraki và Chiba, hàng nghìn ngôi nhà đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc một phần. Cơ sở hạ tầng cũng bị ảnh hưởng nặng nề trên khắp miền Đông Tohoku. Đường bộ và đường sắt bị hư hỏng, lưới điện không hoạt động còn hệ thống thoát nước bị gián đoạn. Ở Fukushima đã xảy ra một vụ vỡ đập.
Các lò phản ứng tại ba nhà máy điện hạt nhân gần tâm chấn động đất đã tự động ngừng hoạt động theo hệ thống cảm biến. Tình trạng này đã cắt nguồn điện chính của các nhà máy cùng hệ thống làm mát của chúng. Nước biển dâng cao cũng làm hỏng hệ thống máy phát điện dự bị của một số nhà máy, đặc biệt là Fukushima Daiichi. Khi mất điện, hệ thống làm mát ở ba lò phản ứng ngừng hoạt động. Sau vài ngày, lõi của chúng trở nên quá nóng, dẫn đến sự cố tan chảy thanh nhiên liệu. Vật liệu nóng chảy rơi xuống đáy các bình chứa trong lò phản ứng 1 và 2 và đốt cháy các lỗ khá lớn qua sàn của mỗi bình, làm lộ một phần vật liệu hạt nhân trong lõi. Các vụ nổ do sự tích tụ khí hydro trong các tòa nhà bao quanh các lò phản ứng số 1, 2 và 3, cùng với ngọn lửa do nhiệt độ tăng lên trong các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng được lưu trữ trong lò phản ứng 4, dẫn đến việc giải phóng mức bức xạ đáng kể khỏi cơ sở trong những ngày và tuần sau trận động đất.
Nỗ lực tái thiết
Những giờ đầu tiên sau thảm kịch, Thủ tướng Nhật Bản khi đó là ông Kan Naoto đã thiết lập một trung tâm chỉ huy khẩn cấp tại Tokyo. Số lượng lớn các nhân viên cứu hộ cùng khoảng 100.000 thành viên lực lượng tự vệ Nhật Bản nhanh chóng được điều động để đối phó tình trạng khủng hoảng. Chính phủ Nhật Bản cũng yêu cầu binh sĩ Mỹ đồn trú ở quốc gia Đông Á này hỗ trợ.
Ngay sau khi thảm họa xảy ra, hàng trăm nghìn người đã phải sống trong các khu trú ẩn tạm thời, bị hạn chế nguồn cung cấp nhu yếu phẩm. Hàng chục nghìn người khác vẫn bị mắc kẹt và bị cô lập ở những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất. 4 năm sau thảm họa, gần 230.000 người dân vẫn không được trở về nhà. Trong những tuần sau thảm họa, phần lớn cơ sở hạ tầng giao thông và dịch vụ ở phía Bắc Honshu đã được khôi phục một phần. Việc sửa chữa tiếp tục cho đến khi các tuyến xe lửa và đường cao tốc chính hoạt động trở lại. Tuy nhiên, nguồn cung cấp điện của khu vực tiếp tục bị ảnh hưởng bởi tình trạng ở nhà máy Fukushima.
Việc các doanh nghiệp và nhà máy bị thiệt hại bởi động đất và sóng thần, cũng như tình trạng mất ổn định nguồn điện, đã làm giảm nghiêm trọng sản lượng sản xuất của khu vực trong những tháng sau thảm họa. Các ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất bao gồm sản xuất chất bán dẫn, các mặt hàng công nghệ cao và ô tô. Năm 2011, chính quyền Thủ tướng Kan Naoto và sau đó là Thủ tướng Yoshihiko Noda đã đề xuất và được thông qua ba khoản ngân sách bổ sung liên quan đến thiên tai. Khoản thứ ba và cũng là khoản lớn nhất trong số này cung cấp khoảng 155 tỷ USD, phần lớn quỹ dành cho việc tái thiết ở các khu vực bị tàn phá. Ngoài ra, vào tháng 2/ 2012, chính phủ đã thành lập Cơ quan tái thiết cấp nội các để điều phối các nỗ lực tái thiết ở khu vực Tohoku.
Cơ quan này được lên kế hoạch hoạt động trong 10 năm. Đây là khoảng thời gian dự kiến sẽ khôi phục hoàn toàn Tohoku. Đầu năm 2015, cơ quan này báo cáo rằng gần như toàn bộ các mảnh vỡ, đống đổ nát sau thảm họa đã được loại bỏ. Dù nỗi đau chưa nguôi, chính phủ và nhân dân quốc gia Đông Á này vẫn nỗ lực vươn lên để xây dựng lại quê hương và đã đạt được kết quả đáng khích lệ.
THAM KHẢO THÊM: