Xét trong thực tế hiện nay, hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng tại nước ta vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế nhất định. Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất.
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về giải phóng mặt bằng. Các hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng:
1.1. Quy định của pháp luật về giải phóng mặt bằng:
– Hiện nay, các hoạt động liên quan đến việc thu hồi, giải phóng mặt bằng diễn ra ngày càng phổ biến tại nước ta. Nguyên nhân là do cơ cấu tổ chức thay đổi nhằm phát triển kinh tế, xã hội mà Nhà nước đưa ra. Đất được thu hồi nhằm mục đích sử dụng vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, dự án phục vụ phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh chung.
Để tiến hành thu hồi, giải phóng mặt bằng, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ phải thực hiện nhiều công việc, giai đoạn khác nhau. Tại mỗi công việc, giai đoạn thực hiện này, các cơ quan ban ngành sẽ phải đảm đương những nhiệm vụ, vai trò cụ thể khác nhau.
–
+ Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành thông báo thu hồi đất đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
+ Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;
+ Người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
+ Trong trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện.
1.2. Các hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng:
Đền bù giải phóng mặt bằng là hoạt động pháp lý mà cơ quan chức năng có thẩm quyền phải thực hiện khi thu hồi đất của người dân. Bản chất của đền bù giải phóng mặt bằng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong quá trình sử dụng đất.
Xét trong thực tế hiện nay, hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng tại nước ta vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:
– Khi có quyết định thu hồi đất, cơ quan chức năng có thẩm quyền chưa thực sự rà soát, kiểm đếm đất đai của người dân một cách cụ thể và kỹ càng. Điều này khiến bỏ sót một số trường hợp người dân khi đền bù giải phóng mặt bằng.
– Công tác đền bù giải phóng mặt bằng của cơ quan Nhà nước chưa thực sự khách quan, minh bạch. Tức những số liệu về giá trị đền bù mà Nhà nước đưa ra chưa thực sự thỏa đáng, không rõ ràng. Điều này chính là gốc rễ gây ra những tranh cãi, bức xúc trong người dân.
– Giá trị đền bù giải phóng mặt bằng so với giá trị quyền lợi thực tế của người sử dụng đất có sự chênh lệch khá lớn. Tức đáng ra người sử dụng đất sẽ được bồi thường giải phóng mặt bằng với giá trị cao, song quyết định đền bù mà Nhà nước đưa ra lại thấp (sự chênh lệch này dù mang tính tương đối nhưng cũng ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến quyền lợi xoay quanh quyền sử dụng đất của người dân).
Trên đây là những hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng. Về cơ bản, những hạn chế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Sâu xa hơn, nó còn gây ảnh hưởng đến chất lượng quản lý đất đai của cơ quan chức năng có thẩm quyền; niềm tin của người dân đối với cơ quan Nhà nước.
2. Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng:
Như đã phân tích ở trên, hiện nay, tại nước ta, vẫn còn tồn tại rất nhiều trường hợp liên quan đến việc đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người sử dụng đất.
Trước những quyết định đền bù giải phóng mặt bằng không thỏa đáng mà Nhà nước đưa ra, người dân thường hướng đến việc khiếu nại. Về cơ bản, có thể hiểu, khiếu nại đền bù giải phóng mặt bằng là việc người sử dụng đất làm đơn khiếu nại, kiến nghị, phản ánh sự không đồng ý của mình đối với quyết định đền bù mà Nhà nước đưa ra. Đồng thời, hoạt động khiếu nại đền bù giải phóng mặt bằng không thỏa đáng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về trình tự thực hiện khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Theo quy định của Luật đất đai 2013, các cơ quan, tổ chức, cá nhân ( người sử dụng đất), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai. Đối với quyết định thu hồi đất nông nghiệp để đấu giá, nếu người dân cho rằng việc thu hồi đất như vậy là không hợp lý, thì họ có quyền khiếu nại tới chủ tịch ủy ban nhân dân cấp quận, huyện hoặc chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Điều 7 và Điều 9
Sau khi nhận đơn khiếu nại mà người dân trình lên, trong vòng 10 ngày (kể từ khi nhận đơn thư khiếu nại), cấp có thẩm quyền phải thụ lý vụ việc và tiến hành đối thoại, ra quyết định giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này được công bố trong tối đa 45 ngày tiếp theo (60 ngày đối với vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn).
Trong vòng 30 ngày, kể từ hạn chót giải quyết vụ việc nhưng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, hoặc đã có nhưng không đồng ý, thì người sử dụng đất được khiếu nại tiếp lên cấp trên hoặc khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án có thẩm quyền.
Từ nội dung phân tích ở trên, có thể khẳng định, nếu không đồng ý với công tác đền bù giải phóng mặt bằng của Nhà nước, người dân được phép khiếu nại lên cơ quan chức năng có thẩm quyền. Hoạt động khiếu nại phải tuân thủ đúng theo quy trình và thủ tục nêu trên. Có như vậy, cơ quan chức năng có thẩm quyền mới xét duyệt và đưa ra phương hướng giải quyết sao cho phù hợp nhất.
3. Việc khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng có ý nghĩa như thế nào?
Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng là quyền mà người dân được phép thực hiện. Hay nói cách khách, khiếu nại là một trong những cách thức để người sử dụng đất sử dụng quyền công dân của mình.
Hoạt động khiếu nại của người dân giúp cơ quan chức năng có thẩm quyền kiểm tra, xem xét lại hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng trên thực tế. Nếu thực sự có sai phạm, sẽ đưa ra phương hướng xử lý kịp thời nhất (bao gồm cả việc quy chụp trách nhiệm với cá nhân vi phạm).
Thông qua hoạt động khiếu nại, người sử dụng đất sẽ được lên ý kiến để bảo vệ quyền lợi của mình xoay quanh việc đền bù giải phóng mặt bằng. Thực tế, công tác đền bù sẽ phát sinh rất nhiều sai sót (khách quan hoặc chủ quan). Nếu người dân không khiếu nại (lên ý kiến), thì quyền lợi của họ sẽ không được xem xét và giải quyết; những sai phạm cũng sẽ không được phát hiện và xem xét điều chỉnh.
Công tác khiếu nại là một trong những cách thức chỉnh lý lại bộ máy Nhà nước trong hoạt động đất đai. Từ đó, nó tạo nên sự minh bạch, khách quan trong thực tiễn thu hồi, đền bù đất nói riềng và công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung.
Chính vì những ý nghĩa nêu trên, khi phát hiện ra những sai phạm trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, người sử dụng đất sẽ thực hiện khiếu nại để được thụ lý giải quyết.
Văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
Luật đất đai 2013;
Luật khiếu nại 2011.