Khởi tố vụ án hình sự là gì? Căn cứ khởi tố vụ án hình sự? Khi nào có quyết định khởi tố vụ án hình sự? Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự? Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an về tình hình tội phạm trên toàn quốc năm 2021, về tội phạm ma tuý, toàn quốc xảy ra 26.193 vụ, so với năm 2020 tăng 591 vụ (+2,31%). Số vụ phạm tội về trật tự xã hội năm 2021, trên Toàn quốc xảy ra 41.728 vụ; tăng 36.040 vụ; thu giữ, xử lý 73.879 đối tượng; tỷ lệ khám phá đạt 86,37%; triệt phá 1.335 băng, nhóm. So với năm 2020, giảm 5.332 vụ (-11,33%) , giảm 3.205 số vụ khởi tố (-8,17%) , giảm 7.891 số đối tượng bị điều tra, xử lý (-9,65%) ; tỷ lệ khám phá là 2,98%; giảm 609 số băng, nhóm bị triệt phá (-31,33%). Có thể thấy, tình hình tội phạm hình sự luôn là vấn nạn lớn của toàn xã hội, việc triệt phá các vụ án không chỉ bảo đảm an ninh trật tự an toàn xã hội mà còn giúp ngăn chặn và phòng ngừa những nguy cơ tội phạm. Vậy khởi tố vụ án hình sự là gì? Và quy định pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự được quy định như thế nào?
Căn cứ pháp lý:
–
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự:
Khởi tố vụ án cũng có thể được hiểu là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác nhận có sự việc phạm tội và tiến hành điều tra phát hiện tội phạm. Đây là một giai đoạn tố tụng hình sự đặc biệt để tiến hành các hoạt động điều tra. Theo Điều 143
– Tố giác của công dân;
– Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
– Tin đăng trên phương tiện truyền thông;
– Kiến nghị điều tra của
– Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự trực tiếp phát hiện dấu hiệu phạm tội;
– Người phạm tội tự thú.
2. Khi nào ra quyết định khởi tố vụ án hình sự?
Thứ nhất, khi có tố giác của người bị hại:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với người có thẩm quyền. Tố giác của cá nhân được tiến hành trực tiếp hay gián tiếp qua mạng viễn thông, email. .. và có thể được trình bày bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. Mọi người đều có quyền tố cáo hành vi tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Đây là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có hành vi tội phạm xảy ra. Việc khởi tố vụ án hình sự dựa trên tố giác của công dân sẽ chỉ được thực hiện sau khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác điều tra, xác minh và kết luận đã có hành vi tội phạm xảy ra đúng theo nội dung của tố giác.
Tuy nhiên, nếu người đó cố tình tố cáo sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Thứ hai, tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân:
Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân là thông tin về việc có dấu hiệu phạm tội được cơ quan, tổ chức, cá nhân
Thứ ba, tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng:
Phương tiện thông tin đại chúng là phương tiện thông tin có đối tượng tác động là đông đảo nhân dân như báo nói, đài truyền hình, phát thanh, . ..
Khi có những thông tin về tội phạm mà các phương tiện này cung cấp, thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành điều tra, xác minh để xem có dấu hiệu tội phạm hay không, làm căn cứ khởi tố hoặc không khởi tố vụ án đó.
Thứ tư, kiến nghị khởi tố của cơ quan quản lý nhà nước:
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Thứ năm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự không phát hiện dấu hiệu phạm tội:
Đây là trường hợp Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu phạm tội trong khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và lấy đó làm căn cứ đình chỉ vụ án hình sự.
Hội đồng xét xử ra quyết định kháng nghị hoặc yêu cầu Viện kiểm sát đình chỉ vụ án hình sự nếu thông qua quá trình tranh tụng tại toà không thấy sự việc nào đó có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa được khởi tố
Thứ sáu, người phạm tội tự thú:
Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện báo cáo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát giác.
Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội và họ tự mình ra thừa nhận hành vi phạm tội của họ với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát giác. Việc thừa nhận hành vi phạm tội của người khác trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát giác là căn cứ để đánh giá có thể có sự việc phạm tội diễn ra và khả năng người đó là người thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, từ lời khai của người phạm tội tự thú cũng là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sử dụng làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Theo Điều 154
– Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải thể hiện rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng và những nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như:
+ Văn bản tố tụng gồm thông báo, mệnh lệnh, chỉ thị, kết luận điều tra, bản kháng nghị, phán quyết cùng một số giấy tờ quan trọng khác của hoạt động tư pháp phải lập theo mẫu quy định.
+ Văn bản tố tụng ghi cụ thể: Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; Căn cứ phát hành văn bản tố tụng; Nội dung của văn bản tố tụng; Họ tên, địa chỉ, bút tích của người ký văn bản tố tụng trên con dấu.
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động tư pháp phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc xét xử.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự, Toà án phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu điều tra của Viện kiểm sát các cấp.
3. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự:
Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự theo Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
– Không có hành vi phạm tội;
– Hành vi không cấu thành tội phạm;
– Người mà hành vi nguy hại cho xã hội chưa đến tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Người mà hành vi tội phạm của họ đã có bản án hoặc quyết định khởi tố vụ án có hiệu lực pháp luật;
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Tội phạm đã được xét xử;
– Người có hành vi nguy hại cho xã hội đã chết, trừ trường hợp phải tử hình đối với tội phạm này;
– Tội phạm mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
4. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
– Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, ngoại trừ những vụ việc các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại (2) , (3) và (4) mục này.
– Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trừ trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 bao gồm cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cục Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các đơn vị tương đương.
– Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với bị can:
+ Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
+ Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, thông tin báo về tội phạm, việc điều tra;
+ Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo quyết định khác của Hội đồng xét xử.
– Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ hoặc yêu cầu Viện kiểm sát điều tra vụ án hình sự nếu qua việc tranh tụng tại phiên toà đã chứng minh có hành vi bỏ lọt tội phạm.
Trên đây là quy định pháp luật về quyết định khởi tố vụ án và thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội không chỉ là trách nhiệm của bộ máy tư pháp mà mỗi công dân đều phải có trách nhiệm giữ gìn trật tự, tố giác tội phạm đúng người đúng tội để góp phần xây dựng lên một xã hội ổn định, an toàn, văn hóa văn minh.