Lạm phát là gì? Giải pháp nào để hạn chế lạm phát? Pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề này như thế nào?
1. Khái niệm lạm phát
– Quan niệm cổ cho rằng: lạm phát là hành tiền vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông” . Khái niệm này chưa giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy do lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
– Một quan điểm khá phổ biến khác cho rằng: lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung ( mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong thời gian ngắn sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hóa nguy cơ lạm phát.
– Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman đã định nghĩa: “ lạm phát là hiện tượng giá cả tăng lên liên tục trong một thời gian dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản ánh biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó, đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ giá hàng tháng mà chúng ta nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
2. Phân loại lạm phát
Lạm phát bao gồm các loại sau:
– Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm.
– Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm.
– Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 19006568
3. Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế( thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này).
Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổng hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác quy nhất chỉ số lạm phát, vì giá của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên , thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI– chỉ số giá tiêu dùng, đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hóa dịch vụ khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế…, được mua bởi “ người tiêu dùng thông thường”.