Trọng tài thương mại quốc tế có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ của các bên, là cơ quan giải quyết tranh chấp mềm dẻo được các bên hoạt động kinh doanh quốc tế ưu tiên lựa chọn. Vậy thỏa thuận trọng tài là gì? Trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Trọng tài thương mại quốc tế là gì?
- 2 2. Thỏa thuận trọng tài là gì?
- 3 3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài:
- 4 4. Bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận trọng tài:
- 5 5. Sự hỗ trợ của tòa án đối với thỏa thuận trọng tài:
- 6 6. Nội dung của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế:
- 7 7. Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế vô hiệu:
- 8 8. Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại:
1. Trọng tài thương mại quốc tế là gì?
Trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ Tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau là sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
2. Thỏa thuận trọng tài là gì?
Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà chỉ được giải quyết tranh chấp khi các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan thỏa thuận chỉ định. Khi các bên thiết lập một thỏa thuận trọng tài thì nghĩa là họ đã trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài và
Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1985 định nghĩa thỏa thuận trọng tài tại Khoản 1, Điều 7 như sau: “1. “Thỏa thuận trọng tài” là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng”.
Từ quy định trên, có thể thấy thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí của các bên về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng bằng phương thức trọng tài. Thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp và có thể dưới hình thức một điều khoản trong hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài riêng biệt.
Hay Công ước châu Âu về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1961 có đưa ra định nghĩa tương tự: “Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa thuận trọng tài, hợp đồng hoặc thoả thuận trọng tài được ký kết giữa các bên, hoặc được trao đổi qua thư từ, điện tín, hoặc các hình thức liên lạc bằng điện toán khác, và trong mối quan hệ giữa các quốc gia mà pháp luật không yêu cầu rằng một thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản, bất kỳ thỏa thuận trọng tài nào cũng phải được ký kết theo đúng hình thức mà luật các nước này quy định”
Xem xét Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 tại Khoản 2 điều 3 đưa ra:
“2. Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”
Đây là một định nghĩa tương đối đơn giản, khái quát, từ đây có thể hiểu đơn giản : thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên về một phương thức giải quyết các tranh chấp, có thể có trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra.
3. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài:
Thỏa thuận trọng tài ý nghĩa rất quan trọng:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để tranh chấp được giải quyết bằng con đường trọng tài. Thỏa thuận giữa các bên là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm quyền trọng tài.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài cho phép loại trừ thầm quyền của Tòa án. Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới ghi nhận nguyên tắc, khi các bên có thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì Tòa án không có thẩm quyền xét xử và thẩm quyền này thuộc trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Thứ ba, việc tự do thỏa thuận lựa chọn các yếu tố trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hình thành những điều kiện tốt nhất để tiến hành hoạt động trọng tài và việc thi hành phán quyết trọng tài được thuận lợi.
Thứ tư, thỏa thuận trọng tài là điểm chốt trong việc xác định thẩm quyền của trọng tài bởi vì không có thỏa thuận trọng tài thì không thể có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
4. Bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận trọng tài:
Trong tố tụng trọng tài, các bên được đảm bảo các bên tranh chấp đều bình đằng về quyền và nghĩa vụ.Trước tiên, các bên có thể thỏa thuận tự lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào hoặc tự thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết các tranh chấp của mình. Khi đã lựa chọn được hình thức trọng tài, các bên có quyền chỉ định trọng tài viên mà mình tin tưởng đồng thời các bên cũng có thể thỏa thuận cả thời gian giải quyết tranh chấp, tức là các bên quyết định khi nào tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, chỉ khi không có thỏa thuận của các bên về thời gian tổ chức phiên họp thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài mới có quyền quyết định. Thường thì vào thời điểm Hội đồng trọng tài cho rằng các thông tin cũng như căn cứ liên quan đến tranh chấp được thu thập đầy đủ đảm bảo cho một phán quyết đưa ra, phiên họp sẽ được mở. Việc mở phiên xét xử sẽ được tiến hành tại địa điểm do các bên lựa chọn.
Bên cạnh đó, các bên cũng được phép thỏa thuận ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài. Đây là nội dung thể hiện quyền được lắng nghe và quyền được trình bày của các bên tham gia. Ngôn ngữ được sử dụng phải phù hợp với tư duy và nhận thức của các bên về vấn đề được tranh luận, thiếu điều này đồng nghĩa với việc một bên hoặc các bên đã bị tước đi quyền được lắng nghe và trình bày. Một quy định tương tự tương tự cũng được ghi nhận trong Quy tắc trọng tài VIAC như sau: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có quyền thỏa thuận về ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt.Các bên có thể yêu cầu trung tâm cung cấp phiên dịch và phải trả chi phí dịch vụ”.
Pháp luật Việt Nam không cho phép các bên toàn quyền lựa chọn pháp luật áp dụng đối với các tranh chấp. Pháp luật quy định quyền của các bên trên cơ sở có sự phân biệt giữa tranh chấp trong nước và tranh chấp có yếu tố nước ngoài: Đối với các tranh chấp giữa các bên Việt Nam, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật nội dung và pháp luật hình thức của Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Việc các bên lựa chọn pháp luật nước ngoài sẽ không được Hội đồng trọng tài chấp nhận. Quy định này là một sự hạn chế so với quy định trọng tài của pháp luật nhiều nước. Tuy nhiên quy định này được coi là phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Song việc lựa chọn pháp luật nước ngoài không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài quyết định.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn chế quyền tự do lựa chọn pháp luật về tố tụng trọng tài của các bên tranh chấp là tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các bên có quyền lựa chọn trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thành lập để giải quyết tranh chấp theo quy định về tố tụng trọng tài. Như vậy, trong mọi trường hợp, việc tiến hành trọng tài trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Do đó, có thể khẳng định quy định này đã hạn chế quyền tự do lựa chọn thủ tục tố tụng trọng tài so với nhiều nước trên thế giới.
5. Sự hỗ trợ của tòa án đối với thỏa thuận trọng tài:
Trong nền kinh tế thị trường, các tranh chấp về kinh doanh đang diễn ra với chiều hướng gia tăng, nội dung tranh chấp phức tạp, mức độ tranh chấp gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đương sự;
Đồng thời đây cũng là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại. Hiện nay ở Việt Nam có hai cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại đó là: hệ thống
– Chỉ định Trọng tài viên;
– Thay đổi Trọng tài viên;
– Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời;
– Huỷ phán quyết trọng tài.
Đối với việc thay đổi Trọng tài viên
Toà án chỉ hỗ trợ việc thay đổi Trọng tài viên trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp.
Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền.
Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền thì một hoặc các bên đương sự có quyền khiếu nại quyết định này ra Toà án. Trong trường hợp nếu Toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì các bên đương sự có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền theo thủ tục chung.
Về việc triệu tập người làm chứng
Hội đồng trọng tài có quyền triệu tập người làm chứng đến phiên họp. Nếu người làm chứng không đến thì Hội đồng trọng tài có quyền đề nghị Toà án có thẩm quyền triệu tập người làm chứng đến phiên họp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hội đồng trọng tài chỉ có quyền ra quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời được liệt kê Hội đồng trọng tài chỉ có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi Hội đồng trọng tài đã thành lập. Các trường hợp khác do Tòa án thực hiện
Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền. Trên thực tế, Luật Trọng tài thương mại đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa Hội đồng trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc của Luật là nếu Hội đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối.
Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc
Toà án nơi Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết tranh chấp có trách nhiệm đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc khi có yêu cầu một hoặc các bên tranh chấp.
Huỷ phán quyết trọng tài
Toà án nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết có thẩm quyền xem xét để huỷ phán quyết trọng tài theo quy định khi có một hoặc các bên tranh chấp yêu cầu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì tranh chấp kinh tế là một thuộc tính mang tính quy luật. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có những cơ quan tài phán có đầy đủ năng lực để giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại ngày một gia tăng và phức tạp.
Cùng với sự trưởng thành của các Toà kinh tế trong hệ thống Toà án nhân dân thì các trung tâm trọng tài thương mại cũng có sự phát triển. Với những Trọng tài viên có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn, là những chuyên gia đầu ngành chúng tôi tin rằng Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam nói riêng và hệ thống các Trung tâm trọng tài thương mại nói chung sẽ không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
Với chức năng thẩm quyền là cơ quan tài phán nhân danh Nhà nước, Tòa án sẽ có sự phối kết hợp cùng các Trung tâm trọng tài thương mại đảm bảo giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại theo thẩm quyền mà pháp luật quy định.
6. Nội dung của thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế:
Để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì thỏa thuận trọng tài phải chứa đựng các thỏa thuận cụ thể về việc giải quyết tranh chấp. Để được coi là một thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận của các bên phải có nội dung giao việc giải quyết tranh chấp cho trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp hoặc đồng ý chọn trọng tài để giải quyết. Như vậy, thỏa thuận trọng tài không nhất thiết phải xác định hình thức trọng tài, tổ chức hay trung tâm trọng tài cụ thể.
Nội dung của thỏa thuận trọng tài nói đến việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp hay bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia thường quy định một số điều khoản cơ bản đối với thỏa thuận trọng tài như hình thức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài,… Ngoài những điều khoản này thì các bên có thể xác lập thêm một số điều khoản khác tùy vào lợi ích của họ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp sau này. Khác với quan hệ pháp luật mà ở đó luật tố tụng mang tính chất quyền lực nhà nước rất cao thì trong lĩnh vực trọng tài, trọng tài viên lại phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên, đây chính là nội dung thỏa thuận của các bên trong điều khoản trọng tài cũng chính là sự khác biệt giữa thỏa thuận trọng tài và đơn khởi kiện.
Hầu hết pháp luật các nước chỉ đơn thuần quy định điều khoản trọng tài phải thể hiện thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài mà không quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Điều đó để các bên tự quyết định cho thấy sự tôn trọng thỏa thuận của các bên sao cho thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật nước đó.
7. Thỏa thuận trọng tài thương mại quốc tế vô hiệu:
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Công ước Geneve 1927 (Điều 1.2.a) đã quy định rằng hiệu lực của thỏa thuận trọng tài ( theo luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài) đã được coi là một trong những căn cứ cần thiết để công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài. Chính vì vậy việc xác định xem thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực hay bị vô hiệu là vô cùng quan trọng. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực. Khi thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu sẽ dẫn tới hậu quả là vụ việc không được giải quyết tại trọng tài. Pháp luật quốc tế không có những quy định cụ thể về các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu. Tuy nhiên, có thể thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi nó không đáp ứng đủ các điều kiện để thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực cụ thể như sau:
– Về năng lực chủ thể:
Điều VI.2 Công ước Geneve 1961 đã quy định rằng: “ năng lực của các chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài được xác định theo luật mà các bên đã lựa chọn để áp dụng thỏa thuận trọng tài, nếu không có lựa chọn chung vấn đề này thì áp dụng luật nơi tuyên phán quyết trọng tài, hoặc nếu không xác định được nơi trọng tài ra phán quyết thì xác định theo luật được chỉ định bởi các quy tắc xung đột pháp luật mà tòa án thu lý áp dụng”. Tuy nhiên đối với mỗi loại chủ thể thì nội dung pháp lý điều chỉnh vấn đề này lại có những quy định khác nhau, phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại quan hệ. Tại Việt Nam các quy định về năng lực chủ thể được quy định trong Bộ luật dân sự và một số các văn bản chuyên ngành khác.
– Về thẩm quyền của trọng tài
Thẩm quyền của trọng tài chính là việc xem xét đối tượng tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài hay không hay nói cách khác tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hay không. Theo Luật Trọng tài thương mại Việt Nam thì thẩm quyền của trọng tài được xác định trong các trường hợp sau:
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài
– Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Pháp luật của hầu hết các quốc gia và pháp luật quốc tế về trọng tài đều yêu cầu điều khoản về thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Mặc dù vậy, thực tiễn pháp lý cũng có những ngoại lệ ví dụ như Công ước Geneve 1961 tại Điều I.2.a lại cho phép ký thỏa thuận trọng tài dưới hình thức miệng nếu các quốc gia không yêu cầu hình thức văn bản. Tuy nhiên, cần xác định đây là những quốc gia nào. Mặt khác, chỉ khi nào thỏa thuận trọng tai bằng miệng được giải thích phù hợp với thực trạng được diễn tả, theo cách không lúng túng và phải có sự nhất trí của các đại diện toàn quyền của mỗi bên thì mới có đủ căn cứ để công nhân thảo thuận trọng tài này.
Hình thức của thỏa thuận trọng tài là văn bản và quan điểm phổ biến của các quốc gia hiện nay là thừa nhận rộng rãi nhiều hình thức “văn bản” ghi nhận ý chí của các bên. Điều này được ghi nhận cụ thể tại Điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL hay Công ước New York 1958. Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Điều 18
Như vậy, có thể thây, thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Với nội dung chính là sự thỏa thuận của các bên về luật tố tụng và đặt nền tảng cho sự hình thành và thực thi toàn bộ tiến trình trọng tài, do đó, hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một phần lớn vào nội dung của thỏa thuận trọng tài.
8. Quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại:
Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Một trong những Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là nguyên tắc thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 4 Luật Trọng tài thương mại (TTTM): Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội (khoản 1)
Trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp về các vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết như các bên thỏa thuận: chọn trung tâm trọng tài, trọng tài viên, địa điểm giải quyết vụ tranh chấp, thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho vụ giải quyết , thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp…Nếu không tôn trọng sự thỏa thuận của các bên thì hệ quả dẫn đến là các quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Bản chất của thỏa thuận trọng tài
Bản chất của thoả thuận ở đây thể hiện ở chí thống nhất sự đồng thuận, tự nguyên của tất cả các bên tranh chấp. Một thoả thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu chỉ là ý chí chủ quan của một bên hay là sự áp đặt của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân. Pháp luật của các nước thường đưa ra mét khung pháp lý chung nhất mà trong phạm vi đó ý chí của các bên được tôn trọng tuyệt đối và điều kiện tiên quyết để xác lập thoả thuận trọng tài
Theo quy định tại Điều 27 Luật TTTM “2. Trung tâm trọng tài hoạt động không vì mục đích lợi nhuận” .Nói cách khác, trọng tài không phải là một tổ chức kinh tế được lập ra để kinh doanh dịch vụ xét xử. Tuy nhiên, khi các bên có tranh chấp mang ra trọng tài thương mại thì trọng tài thu phí từ khách hàng- các bên tranh chấp thông qua việc bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư, thủ tục đơn giản và độ bảo mật cao khi tiến hành xét xử. Tuy nhiên dịch vụ pháp lý mà trọng tài thương mại cung cấp không nhằm mục đích sinh lợi, hoạt động của họ là lấy thu bù chi.
Hình thức thoả thuận trọng tài
Hình thức thoả thuận trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật TTTM:
-
Hình thức của thoả thuận trọng tài cũng là một đặc điểm tạo ra sự khác biệt với những thoả thuận khác thỏa thuận trọng tài có thể tồn tại dưới 2 hình thức: hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng (còn gọi là thỏa ước trọng tài) (Khoản 1)
+) thoả thuận của các bên được ghi nhận trong hợp đồng về việc đưa tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai ra cơ quan trọng tài giải quyết Điều khoản trọng tài trong hợp đồng thường nằm ở cuối hợp đồng và đây chỉ là sự dự liệu, tranh chấp hợp đồng chưa xảy ra hoặc không bao giờ xảy ra nên điều khoản trọng tài thường rất ngắn gọn, đôi khi quá đơn giản.
+) Còn hình thức thỏa thuận riêng là văn bản riêng rẽ do các bên thoả thuận lập ra khi tranh chấp phát sinh. Do thời điểm xác lập là khi tranh chấp đã phát sinh, các bên biết rõ tính chất và mức độ tranh chấp nên thoả ước trọng tài thường được các bên soạn thảo cụ thể, chi tiết và do vậy có hiệu quả cao hơn. Nhưng dù là điều khoản trọng tài hay thoả ước trọng tài thì xét về bản chất là không có sự khác biệt, chúng đều thể hiện sự thoả thuận ý chí của các bên về việc đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết, hay nói cách khác cả 2 đều là cơ sở của “Quyền lực trọng tài”.
-
Trong tất cả các trường hợp “Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản” (Khoản 2). điều này có nghĩa là thỏa thuận trọng tài bắt buộc phải bằng văn bản mà không cần xác lập bằng bất kì một hình thức nào khác để đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác thực ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thỏa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh..
Như vậy, Các bên khi bắt đầu quan hệ thương mại đã dự đoán được trước và thỏa thuận nhay các tranh chấp phát sinh trong tương lai thể hiện thành điều khoản trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng như trình bày trên đây., thỏa thuận này thường được biên soạn có tính khả thi cao.
Thỏa thuận vô hiệu:
Điều 18 Luật TTTM quy định về Thỏa thuận vô hiệu
“ 2. Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”(Khoản 2 Điều 3). Tuy nhiên , thỏa thuận đó có thể vô hiệu do các lí do khác nhau, được quy định tại Điều 18:
+ Khoản 1 quy định: “ Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.”
Mà Điều 2 quy định rõ về Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
“ 1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài”. Vậy những tranh chấp không thuộc một trong ba tranh chấp tại Điều 2 này thì thỏa thuận trọng tài đó sẽ vô hiệu.
+) Khoản 2 “Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”
Người không có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài là người không có quyền theo luật định để kí kết thỏa thuận trọng tài như người được ủy quyền vượt quá phạm vi ủy quyền.
+ ) Khoản 3: ” Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Người không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự xác lập thoả thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài đó cũng bị vô hiệu.
+) Khoản 4: “Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.”
Như đã phân tích ở trên đây về hình thức của thoả thuận trọng tài là bằng văn bản, nếu hình thức không phù hợp với quy định tại Điều 16, tức là thỏa thuận trọng tài bằng các hình thức khác hình thức bằng văn bản thì thỏa thuận đó sẽ vô hiệu
+) Khoản 5: “Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu”:
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí đó không bị ràng buộc bởi pháp luật hay bất kì một tổ chức, cá nhân nào. Khi một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài là những hành động đi ngược lại với nguyên tắc tự do thỏa thuận, và sẽ bị vô hiệu
+) Khoản 6: “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”
Tùy vào thời điểm phát hiện thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu sẽ mang lại những hậu quả pháp lý như tại Điều 6 : “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Như vậy Tòa án sẽ phải thụ lý vụ việc tranh chấp khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định rõ tại Điều 43.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại bất kì thời điểm nào cũng đều làm cho trọng tài không còn thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nữa và tòa án có thẩm quyền nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài thực chất là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và có giá trị độc lập so với hợp đồng chính. Ngay cả khi “hợp đồng bị thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài” (Điều 19 Luật TTTM)
Khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản nằm trong hợp đồng chính thì vẫn mang tính độc lập với hợp đồng chính do thỏa thuận trọng tài có đối tượng pháp lý xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên, hoàn toàn khác so với đối tượng của hợp đồng chính là xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ pháp luật nhất định.
Tuy nhiên, tính độc lập của thỏa thuận trọng tài chỉ tương đối khi mà hợp đồng chính vô hiệu nếu như nguyên nhân chính dẫn đến hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trùng nhau thì đương nhiên cả hai cùng vô hiệu.