Khái niệm, đặc điểm Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử:
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm đầu tiên được quy định chính thức trong
Theo Từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”, điều đó có nghĩa là trong một hay một vài vấn đề nào đó nếu đã xác định điều cơ bản làm định hướng chung thì những việc làm hay hoạt động có liên quan đều phải tuân theo, làm đúng theo hướng cơ bản đã xác định, đã đặt ra. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó và thể hiện hai khía cạnh cơ bản là: Thứ nhất, nguyên tắc phản ánh quy luật phát triển của sự vật, của hoạt động nào đó nên nó thể hiện tính khách quan; Thứ hai, tính khách quan của sự vật, hiện tượng được phản ánh thông qua nhận thức chủ quan của con người, hình thành nên tư tưởng chủ đạo trong hoạt động của con người”.
Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa chung nhất thì nguyên tắc của pháp luật là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp luật.
Về “tranh tụng”: Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Ở thời đấy, nguyên cáo bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước Tòa án. Sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định và đến nay nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Theo từ điển Tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau.
Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ 2 từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Để có cơ sở cho Tòa án có thể phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố tụng quyền khởi kiện vụ việc ra trước Tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ yêu cầu của mình. Như vậy, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Theo đó, tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia; là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể vấn đề “tranh tụng”. “Tranh tụng” là nguyên tắc hay một thủ tục trong tố tụng cũng chưa được xác định rõ ràng. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng và trong các tài liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả Bộ luật TTHS cũng chỉ có quy định về tranh luận là một giai đoạn của xét xử mà chưa có quy định thế nào là “tranh tụng”.
Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá trình xác định sự thật khách về quan vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận, nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp. Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với luận tội, đối đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan. Hội đồng xét xử là “trọng tải” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử.
Cụm từ “tranh tụng” được xuất hiện đầu tiên tại văn kiện của Đảng, cụ thể là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị. Nghị quyết có xác định quan điểm chỉ đạo hoạt động đối với
Khi xét xử các Tòa án phải bảo đảm cho mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có tính thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.
Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo nêu trên của Đảng, Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự, và Tố tụng hành chính đã sửa đổi bổ sung về các nội dung “tranh tụng” theo định hướng mà Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị đã xác định.
Như vậy, từ những diễn giải nêu trên, có thể hiểu “Tranh tụng” là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nếu xem xét tranh tụng dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự thì có nhiều quan điểm về vấn đề này.
Theo quan niệm chung, nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định “là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận”.
Theo TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi cho rằng:
Nguyên tắc tranh tụng đề cao vai trò của luật sư, của cá nhân và đặc biệt đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết dựa trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc.
Quan điểm này thể hiện vai trò của tranh tụng, đồng thời nêu lên được thế đối trọng giữa ba bên tại phiên tòa. Tuy nhiên, quan điểm này còn hạn chế ở chỗ chỉ xem xét nguyên tắc tranh tụng ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa mà không bao quát hết các giai đoạn tố tụng.
Tác giả Nguyễn Đức Mai trong bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự” nêu quan điểm: “Nguyên tắc tranh tụng được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, nguyên lí, các định hướng chi phối toàn bộ quá trình tố tụng hoặc một số giai đoạn nhất định của tổ tụng hình sự được ghi nhận trong các văn bản pháp luật”.
Định nghĩa này chỉ cho thấy nguyên tắc tranh tụng mang nội hàm như nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, nhưng chưa thể hiện rõ được bản chất bình đẳng ba bên của tính tố tụng trong TTHS.
Với góc nhìn toàn diện hơn, trong bài viết của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và Nguyễn Huy Phượng nêu rõ:
Nguyên tắc tranh tụng của luật TTHS là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được ghi nhận trong luật thông qua các quy phạm pháp lý, đồng thời là một quá trình được thể hiện chủ yếu bằng thủ tục tranh luận của các bên tại phiên toà sau khi đã nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các chứng cứ trên cơ sở dân chủ, bình đẳng với nhau, độc lập và tách riêng ba chức năng – buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử vụ án hình sự để xác định sự thật khách quan nhằm bảo đảm cho Toà án đưa ra phán quyết tương ứng có hiệu lực pháp lý một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ vững chắc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tư pháp hình sự.
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cũng trình bày quan điểm bao quát được đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng như sau:
Tranh tụng được nhìn nhận như là một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa) là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên toà sơ thẩm trước Toà án có vai trò là trọng tài. Như vậy, có nhiều quan niệm về nguyên tắc tranh tụng trong TTHS với các cách tiếp cận khác nhau, mỗi cách tiếp cận đều có yếu tố hợp lý riêng. Sự đa dạng trong nghiên cứu và đổi mới cải tiến quan điểm có thể nhìn nhận sự việc ở mọi khía cạnh giúp chúng ta tiếp cận chân lý khách quan. Trong đó, nhận thấy quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và Nguyễn Huy Phượng đã thể hiện được đầy đủ nội hàm của nguyên tắc tranh tụng. Như vậy, có thể hiểu: Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho tất cả các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử trong đó thể hiện rõ sự tách biệt và độc lập của chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Đặc biệt tại phiên tòa xét xử, Toà án đóng vai trò là trọng tài ra phán quyết dựa trên kết quả tranh luận công khai và cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa.
Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, bình đẳng trong TTHS, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên tắc tranh tụng đề cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc.
Như đã nêu ở trên, vai trò của tranh tụng được thể hiện thông qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục thực hiện tranh tụng. Đó là quy tắc về thủ tục, quy tắc về chứng cứ và quy tắc điều chỉnh về đạo đức ứng xử của Luật sư.
Quy tắc về thủ tục bao gồm một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị chứng cứ trước khi bước vào xét xử chính thức là một thủ tục tư pháp hành chính để Tòa án xem xét các chứng cứ đã đủ cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm chính thức hay chưa. Quy tắc này cũng nhằm mục đích tránh những thủ tục điều tra có thể diễn ra không cần thiết tại phiên tòa.
Quy tắc về chứng cứ nhằm ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy có thể làm cho Tòa án đưa ra phán quyết trên cơ sở những thông tin sai lệch. Đồng thời quy tắc về chứng cứ cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không công bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng.
Với những quy định trong quy tắc về chứng cứ, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo sự trung lập và thụ động của Tòa án trong quá trình xét xử. Hơn nữa, quy tắc về chứng cứ cũng tạo điều kiện để Luật sư của các bên và Công tố viên, buộc họ phải biết được những chứng cứ nào có thể được chấp nhận tại phiên tòa trong khi xét xử. Nó cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phải điều hành phiên tòa theo các diễn biến của nó theo đúng thủ tục. Khác với hệ thống tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền chọn chứng cứ mà họ cho là thích hợp nhất mà phải tuân thủ các quy tắc về chứng cứ đã được xác định trước.
Do tính chất cạnh tranh, đối đầu trong tranh tụng tố tụng đã dẫn tới tình trạng buộc các bên phải đặt mục tiêu phải thắng trong cuộc đối đầu tại phiên tòa kể cả bằng bất cứ giá nào, nên nguyên tắc tranh tụng còn đặt ra một loạt các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp để kiểm soát đội ngũ Luật sư của các bên. Quy tắc về đạo đức hành nghề Luật sư còn đòi hỏi Luật sư phải trung thành với quyền lợi của thân chủ như chính quyền lợi của mình. Những thủ đoạn hay hành vi che dấu, làm sai lệch thông tin có thể làm cho Tòa án định kiến đều bị pháp luật ngăn cấm và loại trừ.
Với vai trò tranh tụng thông qua ba quy tắc trên có thể thấy rằng, trong giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo việc không trao cho ai quyền độc tôn trong xét xử, không một bên tham gia nào có thể chiếm ưu thế hơn bên kia, kể cả Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Quyền lực được phân chia giữa Thẩm phán, Công tố viên và
Tuy nhiên, có thể thấy rằng vấn đề để kiểm tra chéo chứng cứ và cân bằng vị trí (giữa bên Công tố viên và Luật sư bào chữa không ai có lợi thế hơn ai về thẩm quyền trong quá trình xét xử) là một đặc điểm cơ bản, làm nổi bật vai trò của tranh tụng so với hệ thống tố tụng thẩm vấn, nơi mà hầu hết quyền lực đều tập trung vào thẩm phán trong giai đoạn xét xử. Vai trò của
tranh tụng coi trọng việc xét xử một con người bị tình nghi phạm tội bị phán xét như thế nào tại phiên tòa hơn là việc xác định họ đã làm gì trên thực tế, xét xử tội trạng của họ thiên về khía cạnh pháp lý hơn, trong khi đó, hệ thống tụng thẩm vấn coi phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn điều tra công khai tại phiên tòa, và ở đó Thẩm phán không những là người điều khiển phiên tòa mà tố còn là người thẩm vấn chính, có nhiệm vụ thẩm tra lại tất cả các chứng cứ do các bên thu thập được trong giai đoạn điều tra trước đó.
Với các nội dung đã phân tích trên thì có thể thấy rằng phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng chủ yếu là tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự; bắt đầu từ khi Tòa án mở phiên toà cho đến khi kết thúc phiên tòa và tập trung trong phần tranh luận của kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng.
Về mặt pháp lý, “xét xử” là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, …). Như vậy, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án, Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Do đó, nói đến tranh tụng trong tố tụng chính là tranh tụng trong xét xử, là việc các bên đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh rằng mình (một bên trong tố tụng) là đúng và đề nghị Tòa án ra phán quyết công nhận theo quan điểm của mình. Vì tranh tụng trong TTHS diễn ra ở mọi giai đoạn của quá trình tố tụng, tuy nhiên chỉ có thể được tiến hành đầy đủ tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Tham gia vào quá trình tranh tụng là tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa, các chủ thể khác dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa một cách công khai. Hội đồng xét xử có vai trò đứng giữa, là trọng tài phân xử và đưa ra quyết định cuối cùng về vụ án.
Tóm lại, với ý nghĩa là một nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là những quy định pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc thực hiện quá trình tranh luận bình đẳng nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm ra sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho Tòa án có các phán quyết chính xác. Như vậy, tranh tụng trong xét xử thực chất là quá trình vận động tác động qua lại giữa hai chức năng cơ bản của TTHS: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này được tạo điều kiện “bình đẳng” với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án ý mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm.
2. Đặc điểm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm:
Thực hiện cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại chương VIII (Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân) (khoản 5 Điều 103). Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng trong xét xử được phân định rõ ràng. Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Tại phiên tòa thì Viện kiểm sát, bị hại thực hiện chức năng buộc tội; người bào chữa, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa còn Hội đồng xét xử thực hiện chức năng tài phán (xét xử). Quá trình tranh tụng tại phiên tòa chính là quá trình chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp nội dung buộc tội hoặc gỡ tội đối với bị cáo.
Do đó, để đảm bảo tính tranh tụng thì phải phân định rõ chức năng của từng chủ thể tham gia tranh tụng.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt, bên buộc tội và bên gỡ tội bình đẳng nhau. Bên buộc tội (Viện kiểm sát, bị hại) và bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo) hoàn toàn bình đẳng với nhau trong hoạt động tố tụng tại phiên tòa, họ có những quyền tương ứng với chức năng để thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ để chứng minh quan điểm của mình là có căn cứ. Viện kiểm sát đưa ra chứng cứ, luận điểm buộc tội bị cáo; người bào chữa, bị cáo đưa ra chứng cứ, luận điểm gỡ tội, đối đáp lại những luận điểm của Viện kiểm sát. Hai bên đều có quyền hỏi bị cáo, tranh luận trực tiếp với nhau và làm rõ những vấn đề còn mâu thuẫn để làm sáng tỏ nội dung vụ án.
Thứ ba, Hội đồng xét xử mà cụ thể là Thẩm phán giữ vai trò là trọng tài. Theo nguyên tắc tranh tụng thì mọi vấn đề liên quan đến vụ án (việc xác định có tội hay không có tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường, xử lý vật chứng, vấn đề khác) đều phải được trình bày, tranh luận tại phiên tòa. Do đó, trách nhiệm của Thẩm phán là phải kiểm tra tính hợp pháp của các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chứng cứ do các bên đưa ra, điều khiển việc tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, căn cứ kết quả tranh tụng giữa các bên để ra phán quyết theo quy định của pháp luật. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm đầy đủ các điều kiện, thực thi các quy định của pháp luật TTHS để các bên được tham gia tranh tụng. Mọi chứng cứ xác định việc buộc tội hay gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điều khoản của BLHS để xác định tội danh, quyết định mức hình phạt, mức bồi thường thiệt hại và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm:
– Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là sự bảo đảm quan trọng để vụ án được giải quyết khách quan, dân chủ, công bằng, quyền con người của người bị cáo buộc phạm tội được tôn trọng, đảm bảo.
Bản chất và mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm Tòa án ra phán quyết là đúng đắn, chính xác, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, bảo đảm quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa tình trạng oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong quá trình tranh tụng bên buộc tội và bên bào chữa có các quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ, tiếp cận chứng cứ và tranh luận tại phiên tòa một cách dân chủ, bình đẳng để bảo vệ quan điểm lập luận của mình; bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử chính là phương thức ưu việt trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, là xu thế tất yếu của TTHS, thể hiện mô hình tố tụng dân chủ, bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
– Nguyên tắc tranh tụng xác định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Những quy định pháp luật TTHS hiện hành đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư pháp, của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia tranh tụng; thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng tâm là hoạt động tranh tụng được bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng, dân chủ.
– Nguyên tắc này cùng với các quy định về quyền của người bị buộc tội, người bào chữa, Viện kiểm sát, quyền, trách nhiệm của Tòa án, các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa… đã tạo ra cơ chế hoàn chỉnh bảo đảm cho các bên thực hiện tranh tụng có hiệu quả trong thực tế, góp phần loại bỏ tình trạng làm oan, sai; bảo đảm quyền con người và tiến tới xây dựng một nền tư pháp trong sạch, hiện đại. Bằng phiên tòa dân chủ, công khai, việc xét xử của Tòa án tạo cho những người tham dự phiên tòa và những người tham gia tố tụng lòng tin vào pháp luật, vào hoạt động giải quyết vụ án của các cơ quan có thẩm quyền. Thông qua việc tranh tụng tại phiên tòa góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội, giáo dục công dân có ý thức nâng cao nhận thức, tin tưởng vào pháp luật, tự giác tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương.
– Nguyên tắc tranh tụng đã thể hiện chính sách pháp luật TTHS hiện nay của Đảng được ghi nhận ở các nghị quyết “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”; Hiến pháp năm 2013 và hàng loạt văn bản khác như Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật TTHS năm 2015….
Kể từ Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tổ của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…” đồng thời nhấn mạnh: “Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng một lần nữa yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Mới đây nhất, tại Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội khóa XIII tiếp tục khẳng định: “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo các Toà án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”. Nhận xét về sự ra đời của nguyên tắc này, PGS.TS Nguyễn Hòa Bình đánh giá: “Đã phản ánh bước tiến của nền tư pháp nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất, có tính quyết định đối với hiệu quả hoạt động TTHS”.
4. Các điều kiện thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm:
Tranh tụng trong TTHS chỉ thực sự khả thi khi có đầy đủ những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế. Do đó, để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thực thi có hiệu quả thì cần đảm bảo các điều kiện sau đây:
Một là, đảm bảo về mặt pháp lý, đó chính là cơ chế thực thi pháp luật TTHS về tranh tụng phù hợp, có hiệu quả Cơ chế thực thi pháp luật TTHS cần theo hướng bảo đảm để các quy định về tranh tụng trong xét xử được thực hiện đầy đủ nhất trong quá trình giải quyết vụ án; tránh tạo ra các cơ chế thực thi pháp luật làm hạn chế hoặc triệt tiêu các quyền trong hoạt động tranh tụng của người bị buộc tội, người bào chữa, tạo ra sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, cũng như tạo ra sự thiên lệch cho Tòa án trong quá trình tranh tụng. Cụ thể:
Các quy định của pháp luật TTHS phải đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình;
– Bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tố tụng trước Tòa án là quan trọng nhất của pháp luật TTHS; bình đẳng trong quá trình chứng minh (bao gồm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ), bình đẳng trong bày tỏ quan điểm, đưa ra các yêu cầu và tranh luận trước Tòa án;
– Bảo đảm để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng; mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham gia bắt buộc của luật sư;
– Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên tham gia tố tụng để họ có đủ cơ sở pháp lý cho việc tranh tụng được thực hiện trên thực tế;
Mở rộng phạm vi tiến hành và tham gia tố tụng của các chủ thể tranh tụng, nhất là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự để họ có thể thay mặt bị cáo, đương sự thực hiện việc tranh tụng trong TTHS;
– Quy định quyền khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của các bên và hiệu lực như nhau của các khiếu nại đó. Ví dụ: Viện kiểm sát và bị cáo đều phải có quyền kháng cáo, kháng nghị như nhau đối với bản án, quyết định của Tòa án.
Hai là, bảo đảm những điều kiện tranh tụng cho chủ thể tranh tụng
– Hình thành các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức bổ trợ với chức năng hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng;
– Tăng cường các tổ chức luật sư, mở rộng phạm vi bào chữa để đảm bảo các phiên tòa có sự tham gia của người bào chữa ngày càng nhiều, nâng cao văn hóa pháp lý trong tố tụng nói chung và tại phiên tòa nói riêng;
– Nâng cao trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đảm bảo cho họ có đủ năng lực về chuyên môn, về phong cách, về khả năng diễn đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Những trường hợp người tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp của luật sư;
Ba là, đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí cho quá trình tranh tụng
Phòng xử án phải có cấu trúc phù hợp với mô hình tranh tụng với đầy đủ các trang thiết bị cần thiết phù hợp với các loại đối tượng phạm tội, sắp xếp vị trí các bên tại phiên tòa đảm bảo không khí tố tụng bình đẳng, khách quan; tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, hình ảnh thuận tiện cho việc theo dõi tiến trình tố tụng là những điều kiện rất cần thiết cho tranh tụng.