Ngày nay, việc nhượng quyền thương mại diễn ra khá phổ biến. Hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ ràng buộc những vấn đề pháp lý liên quan cho các bên tham gia ký kết và là căn cứ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ khi có tranh chấp. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu nhượng quyền thương mại.
Mục lục bài viết
- 1 1. Nhượng quyền thương mại là gì?
- 2 2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại:
- 3 3. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại:
- 4 4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại:
- 5 5. Sự khác biệt giữa hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại với hợp đồng đại lý thương mại:
- 6 6. Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại:
1. Nhượng quyền thương mại là gì?
Về nhượng quyền thương mại, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”.
Theo quy định trên vềnhượng quyền thương mại, ta cần quan tâm tới những vấn đề sau:
Thứ nhất, nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại
Thứ hai, pháp luật về vấn đề này đã nhấn mạnh tới quyền của bên nhượng quyền(cho phép và yêu cầu) với bên nhận quyền và những điều kiện mà bên nhận quyền là bên có nghĩa vụ phải tuân thủ khi tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Cụ thể, bên nhượng quyền sẽ trao cho bên nhận quyền kinh doanh các quyền sử dụng mô hình, kĩ thuật kinh doanh sản phẩm, dịch vụ dưới thương hiệu của mình và nhận lại một khoản phí hoặc phần trăm doanh thu trong một khoảng thời gian nhất định, bên nhận quyền thương mại có quyền sử dụng quyền thương mại của bên nhượng quyền để tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng phải tuân thủ một số điều kiện mà bên nhượng quyền đưa ra.
2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại:
Dựa trên định nghĩa về nhượng quyền thương mại của Luật Thương Mại Việt Nam 2005 nhượng quyền thương mại có những đặc điểm sau:
-Đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại
Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, cùng với đó là việc được sử dụng nhãn mác, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo…của bên nhượng quyền. Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, nội dung cốt lõi chính là việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sử dụng quyền thương mại của mình trong kinh doanh.
– Giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền luôn tồn tại một mối quan hệ hỗ trợ mật thiết
Đây là một đặc điểm giúp chúng ta tìm thấy sự khác biệt của nhượng quyền thương mại với các hoạt động thương mại khác. Trong nhượng quyền thương mại luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa Bên nhượng quyền và bên nhận quyền, nếu không có điều đó, thì đã thiếu đi một điều kiện tiên quyết để xác định hoạt động đấy có phải là nhượng quyền thương mại hay không.
Tính mật thiết của mối quan hệ giữa Bên nhượng quyền và bên nhận quyền thể hiện từ ngay sau khi các bên hình thành nên quan hệ nhượng quyền thương mại. Kể từ thời điểm đó, Bên nhượng quyền phải tiến hành việc cung cấp tài liệu, đào tạo nhân viên của bên nhận quyền. Không chỉ vậy, mà cùng với sự lớn mạnh và phát triển theo thời gian của hệ thống, Bên nhượng quyền phải thường xuyên trợ giúp kỹ thuật, đào tạo nhân viên của bên nhận quyền đối với những ứng dụng mới áp dụng chung cho cả hệ thống.
– Luôn có sự kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc điều hành công việc của bên nhận quyền
Quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc điều hành hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền được pháp luật đa số các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Theo đó, bên nhượng quyền có thể định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc thực hiện các quyền thương mại của Bên nhận quyền. Sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với Bên nhận quyền như đã nói ở trên sẽ trở nên vô nghĩa và thiếu đi tính thực tế nếu như bên nhượng quyền không có quyền năng kiểm soát hoạt động điều hành kinh doanh của bên nhận quyền. Quyền năng này của bên nhượng quyền đã thực sự tạo nên chất kết dính quan trọng trong việc xây dựng tính thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
3. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại :
Pháp luật chỉ đưa ra các nội dung cơ bản, chủ yếu tạo ra xương sống cho hợp đồng, còn các bên sẽ thỏa thuận chi tiết cho phù hợp với điều kiện của mình. Theo Điều 11
a. Theo khoản 1 Điều 11
Đây chính là điều khoản xác định đối tượng của hợp đồng, được coi là trung tâm của hợp đồng, nó có ảnh hưởng tới mọi điều khoản khác trong hợp đồng
b. Theo khoản 2 Điều 11 nghị định 35 quy định về: Quyền và nghĩa vụ của các bên:
Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bên nhượng quyền và bên nhận quyền do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì theo điều 286, 287, 288, và 289
– Đối với bên nhượng quyền:
Thương nhân nhượng quyền có 3 quyền cơ bản là: Thứ nhất: là nhận tiền nhượng quyền; Thứ hai: là tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM và mạng lưới NQTM; Thứ ba: là kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận nhượng quyền đảm bảo sự thống nhất của hệ thống NQTM và sự ổn định của chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
– Đối với bên nhận quyền:
Quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền được quy định tại Điều 288, 289
c. Theo khoản 4 Điều 11 nghị định 35 quy định về: Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán.
Điều khoản này do các bên thỏa thuận. Pháp luật không quy định mức giá cố định cho từng hàng hóa mà các bên căn cứ vào uy tín của hàng hóa, khu vực nhượng quyền và nhu cầu của thị trường, … để quyết định giá, phí thanh toán. Đồng thời lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp với điều kiện của các bên. Pháp luật quy định như vậy đảm bảo quản lý ở tầm vĩ mô không can thiệp quá sâu vào quan hệ giữa các bên.
d. Theo khoản 5 Điều 11 nghị định 35 quy định về: “Thời hạn hiệu lực và gia hạn hợp đồng.”
Pháp luật Việt Nam không quy định một thời hạn cố định mà thời hạn của hợp đồng do các bên tự quyết định. Bên cạnh đó tại Điều 13 Nghị định 35 cũng quy định: Hợp đồng có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp quy định tại điều 16 của Nghị định, đó là các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nghị định 35 cũng quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tại điều 14 theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu không có sự thỏa thuận khác thì hợp đồng NQTM có hiệu lực tức thời tại thời điểm giao kết. Ngoài ra, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng Theo Điều 404
Khi hợp đồng hết thời hạn các bên có thể thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Đồng thời các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn hết hiệu lực của hợp đồng.
e. Theo khoản 6 Điều 11 nghị định 35 quy định về: Chấm dứt
Thông thường hợp đồng NQTM sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:
* Hết thời hạn thực hiện hợp đồng mà các bên không có thỏa thuận gia hạn.
* Hợp đồng chưa hết thời hạn thực hiện nhưng các bên có thỏa thuận chấm dứt.
* Một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Việc quy định quyền năng này để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho bên bị vi phạm. Theo điều 16 Nghị định 35 các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong các trường hợp sau:
– Đối với bên nhận quyền: Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong trường hợp bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ sau:
+ cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền;
+ đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại;
+ vụ thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của thương nhân nhận quyền;
+ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền;
+ đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại.
– Đối với bên nhượng quyền: Bên nhượng quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong các trường hợp sau:
+ Bên nhận quyền không còn giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương mà theo quy định của pháp luật bên nhận quyền phải có để tiến hành công việc kinh doanh theo phương thức NQTM
+ Bên nhận quyền bị giải thể hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam
+ Bên nhận quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ thống NQTM.
+ Bên nhận quyền không khắc phục những vi phạm không cơ bản trong hợp đồng NQTM trong một thời gian hợp lý, mặc dù đã nhận được thông báo bằng văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm đó từ bên nhượng quyền.
f) Giải quyết tranh chấp:
Hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng trong thương mại nên cơ chế giải quyết tranh chấp cho hợp đồng này cũng giống cơ chế giải quyết tranh chấp cho những hợp đồng trong thương mại khác. Điều 317 Luật thương mại 2005 quy định hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm: hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải; giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, các bên trong hợp đồng NQTM có quyền tự do lựa chọn một trong bốn hình thức giải quyết tranh chấp nói trên để giải quyết các tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại:
Qua phân tích những ưu nhược điểm trong hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng như những rủi ro dễ thấy đối với các chủ thể tham gia giao kết HĐNQTM thì các nhà làm luật nhất thiết cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại (NQTM) trong thời gian sớm nhất. Cơ bản, cần hoàn thiện những nội dung sau:
Thứ nhất, Đưa ra khái niệm “Nhượng quyền thương mại” và “Quyền thương mại” hoàn chỉnh hơn.
Bởi lẽ: NQTM và quyền thương mại trong pháp luật hiện hành chưa phản ánh được đầy đủ bản chất của hoạt động thương mại này. Điều này đã gây khó khăn cho các chủ thể trong việc tiếp cận bản chất của khái niệm, có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng li- xăng, hợp đồng chuyển giao công nghệ với HĐNQTM, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế không được thống nhất. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh hơn về NQTM và quyền thương mại sao cho thể hiện đúng và đầy đủ bản chất của hoạt động thương mại này.
Định nghĩa về NQTM tại Điều 284 Luật Thương mại 2005 cần quy định lại theo hướng ít nhất phải thể hiện những khía cạnh sau:
– Các bên trong quan hệ độc lập với nhau về mặt pháp lý, tài chính và kinh doanh.
– Đối tượng của NQTM là một tập hợp tài sản thương mại vô hình thuộc quyền sở hữu của bên nhượng quyền, được gọi là quyền thương mại.
– Có sự đồng bộ, thống nhất về mặt hình thức biểu hiện đối với cách thức tiến hàng hoạt động thương mại cỉa hệ thống NQTM.
Thứ hai, đưa ra khái niệm HĐNQTM.
Việc đưa ra khái niệm chính thức về HĐNQTM để có thể làm cơ sở các quy định của pháp luật về hợp đòng và những đặc trưng cơ bản của hoạt động nhượng quyền thương mại.
Pháp luật có thể đưa ra sự phân loại trực tiếp hay gián tiếp HĐNQTM đồng thời cần chỉ ra quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên nhượng quyền sơ cấp, nhận quyền sơ cấp, nhượng quyền thứ cấp, nhận quyền thứ cấp.
Thứ ba, Quy định điều kiện về các chủ thể tham gia HĐNQTM hợp lý hơn.
Điều này nhằm mục đích hạn chế tối đa nguy cơ phải đối mặt với các rủi ro của các bên khi tham gia HĐNQTM. Trong bối cảnh thị trường NQTM Việt Nam còn non trẻ, các thương nhân trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, đồng thời hiểu biết pháp luật nói chung còn hạn chế việc tiếp tục quy định một số yêu cầu có phần khắt khe đói với thương nhân dự kiến nhận quyền là cần thiết để đảm bảo cho hoạt động NQTM phát triển. Tuy nhiên, cần chuyển hướng quy định điều kiện về kinh tế, kỹ thuật khả năng tài chính, số cơ sở nhượng quyền, khả năng quản lý,.. để có thể phản ánh được trung thực nhất hiệu quả của hệ thống NQTM đó. Những điều kiện này cũng phải được cụ thể hóa thành những tiêu chuẩn nhất định để dễ dàng kiểm tra, đánh giá về đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
– Để tạo ra sự bình đẳng giữa bên nhận quyền sơ cấp và thương nhân Việt Nam với bên nhận quyền sơ cấp từ thương nhân nước ngoài, Nghị định 35/2006/NĐ-CP cần sửa đổi theo hướng hoặc quy định chung đối với cả bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền Việt Nam và bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam, hoặc cần loại bỏ quy định tại Điều 5 Khoản 1 Đoạn 2 NĐ 35/2006/NĐ-CP “thương nhân Việt nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhường quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hàng cấp lại quyền thương mại”.
– Bên nhượng quyền thương mại phải đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, xác định rõ phạm vi, cách thức thực hiện quyền kiểm soát, nghĩa vụ trợ giúp kỹ thuật của bên nhượng quyền.
Pháp luật Việt Nam trong thời gian tới cần chỉ rõ bên nhượng quyền được quyền kiểm soát bên nhận quyền, cũng như có nghĩa vụ trợ giúp bên nhận quyền trong những công việc gì, lĩnh vực nào một cách hợp lý. Có thể quy định theo hướng cho phép bên nhượng quyền được quyền kiểm soát đối với những hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp tới tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền,; và bên nhượng quyền chỉ được kiểm soát theo cách thức mà các bên đã thống nhất trong HĐNQTM. Tuy nhiên, cũng cần giới hạn bên nhượng quyền không được làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của bên nhận quyền khi thực hiện quyền kiểm soát.
Nghĩa vụ trợ giúp kỹ thuật của bên nhượng quyền được quy định tại Khoản 2 Điều 284 Luật Thương Mại 2005 cần khẳng định đây là nghĩa vụ bắt buộc của bên nhượng quyền không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong HĐNQTM. Đồng thời, cấm bên nhượng quyền lợi dụng việc hỗ trợ kỹ thuật để can thiệp quá mức vào hoạt động tự do kinh doanh của bên nhận quyền.
Thứ năm, quy định căn cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên nhận quyền hợp lý hơn và bổ sung cách thức giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Căn cứ chấm dứt HĐNQTM quy định tại Điều 16 NĐ 35/2006/NĐ-CP không thể hiện được sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ, đồng thời dễ bị bên nhận quyền lạm dụng để đơn phương chấm dứt hợp đồng bất cứ khi nào. Do vậy cần phải quy định sự vi phạm nghĩa vụ của bên nhượng quyền quy định tại Điều 287 Luật Thương mại 2005 đến mức độ nào để được coi là căn cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên nhận quyền sao cho đảm bảo được tính hợp lý và cân bằng.
Việc các bên thỏa thuận về cách thức giải quyết tranh chấp cũng rất quan trọng, điều này cần được thỏa thuận cụ thể và rõ ràng trong hợp đồng, bởi nó là căn cứ pháp lý cần thiết giúp cho việc giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, làm giảm khả năng phải gánh chịu những hậu quả bất lợi cho các chủ thể khi phát sinh tranh chấp.
5. Sự khác biệt giữa hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại với hợp đồng đại lý thương mại:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại và hợp đồng đại lý thương mại đều là một dạng của dịch vụ thương mại nhưng nhượng quyền thương mại và đại lý thương mại có một số điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, trong quan hệ đại lý thương mại, theo quy định tại Điều 170 Luật thương mại thì bên giao đại lý vẫn là chủ sở hữu của hàng hóa hoặc tiền giao cho bên đại lý. Do đó, trong trường hợp bên đại lý không bán được hàng hóa hoặc có rủi ro xảy ra đối với hàng hóa, bên giao đại lý với tư cách chủ sở hữu phải tự gánh chịu mọi rủi ro về hàng hóa hoặc tiền giao cho bên đại lý. Nhưng trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền và bên nhượng quyền là hai chủ thể kinh doanh độc lập. Do đó, bên nhận quyền phải tự gánh chịu mọi rủi ro liên quan đến hàng hóa.
Thứ hai, khoản 2 Điều 173 Luật thương mại quy định, bên giao đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hành hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ. Nhưng trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền và nhượng quyền chỉ là hai chủ thể độc lập, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Vì thế, bên nhận quyền phải chịu mọi trách nhiệm với khách hàng về chất lượng hàng hóa, chất lượng dịch vụ mà mình cung ứng.
Thứ ba, theo quy định của Luật thương mại, thương nhân nhận quyền có nghĩa vụ chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền, tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của thương nhân nhượng quyền và điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhưng quyền thưng mại. thương nhân nhượng quyền có quyền kiểm ttra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hóa, dịch vụ ( khoản 3 Điều 286 và khoản 3 Điều 289 Luật thương mại). Nhưng trong quan hệ đại lý thương mại, bên đại lý được quyền chủ động trong việc tổ chức hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình và không cần đảm bảo sự thống nhất với các bên đại lý khác.
6. Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại:
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là sự thỏa thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau:
Thứ nhất, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
Thứ hai, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhân quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể. Gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhận quyền và bên nhượng quyền đều phải là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là quyền thương mại. Theo đó, bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền dưới sự kiểm soát và trợ giúp của bên nhượng quyền.
Thứ ba, về nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại là các điều khoản do các bên thỏa thuận, xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Khi tham gia hợp đồng này thì các bên sẽ trao đổi với nhau những quyền mà mình được hưởng đồng thời trao đổi với nhau về những nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.
Thứ tư, về hình thức hợp đồng. Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như fax, telex…