Định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản:
Tội cướp tài sản là loại tội phạm đặc trưng, phổ biến được thực hiện trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Việc định tội danh đối với tội cướp tài sản là hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng trên cơ sở những dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi cướp tài sản, thuộc khoản (khung cụ thể nào để từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng theo quy định pháp luật.
BLHS năm 2015 quy định về tội “Cướp tài sản” như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm...” .
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, tác giả thống nhất với quan điểm định nghĩa về tội cướp tài sản như sau: Tội cướp tài sản là hành vi của một người đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS cố ý dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản .
Trên cơ sở các khái niệm định tội danh và tội cướp tài sản đã phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản như sau: Định tội danh đối với tội cướp tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không, nếu có thì thuộc điếm, khoản nào của Điều 168 Bộ luật hình sự.
2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với cướp tài sản:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện với việc xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tại điều 168 BLHS năm 2015.
Thứ hai, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án cướp tài sản để đối chiếu, so sánh, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại điều 168 BLHS năm 2015.
Thứ ba, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là BLHS (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể là điều 168 BLHS. Trong khi đó căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là cấu thành tội phạm này (bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Cụ thể:
– Khách thể của tội phạm: Đối với tội cướp tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hại khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản), nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ánh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản.
Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.
Những tài sản không phải là đối tượng của tội cướp tài sản cũng như các tội phạm sở hữu khác: Những tài sản mang tính chất tự nhiên như: rừng nguyên sinh, khoáng sản, động vật hoang dã trong rừng; Những tài sản có tính năng đặc biệt như: vũ khí, vật liệu nổ, tàu bay, tàu thủy, công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Đối với các tài sản này, BLHS đã có tội riêng để quy định và khi định tội danh thì định tội danh theo những tội riêng đó.
Xem thêm: Phân biệt, so sánh tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
– Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn được mô tả trong điều luật: Dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt là hành vi mong muốn dịch chuyển tài sản của người khác thành tài sản của mình trái pháp luật và trái ý chí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc công cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người khác; hành động tấn công này có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị tấn công và làm cho họ mất khả năng chống cự lại hoặc công khai để cho người bị tấn công biết.
Đe dọa dùng ngay tức khắc thông thường được kết hợp giữa hành vi sử dụng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực ngay tức khắc nếu không giao tài sản. Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là hành vi cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy ra nhưng không có cách nào chống cự được hoặc tuy không bị nguy hại đến tính mạng, sức khỏe song không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra.
Việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công làm vào tình trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.
– Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Bất kỳ người nào từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực TNHS đều có thể trở thành chủ thể của tội cướp tài sản.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được. Nếu có hành vi tấn công nhưng vì động cơ và mục đích khác chứ không nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn công lấy tài sản đó thì không phải là tội cướp tài sản mà tuỳ vào trường hợp cụ thể mà truy cứu TNHS người có hành vi tấn công theo các tội tương ứng, riêng hành vi chiếm đoạt của người có hành vi tấn công có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị coi là hành vi phạm tội cướp tài sản.
Xem thêm: Dùng súng cướp ngân hàng thì án phạt bao nhiêu năm tù?
Như vậy, mục đích giữ lại tài sản sau khi đã chiếm đoạt được bằng cách dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là cướp tài sản.
Tội cướp được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội cướp tài sản. Nếu thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì không phạm tội cướp tài sản.
Thứ tư, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cướp tài sản thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định. Từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu. Các loại văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh đối với tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm:
– Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự; – Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;
– Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can;
– Quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ điều tra bị can; – Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại; – Quyết định phục hồi điều tra; – Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra; – Kết luận điều tra; – Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung – Bản cáo trạng; – Bản án; – Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị; – Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.