Khắc phục hậu quả là khắc phục tác hại của tội phạm gây ra mà không thể sửa chữa hoặc bồi thường bằng tài sản được. Vậy khắc phục hậu quả tội lừa đảo có được giảm án không?
Mục lục bài viết
- 1 1. Khắc phục hậu quả tội lừa đảo có được giảm án không?
- 2 2. Khắc phục hậu quả tội lừa đảo bao nhiêu tiền thì được giảm án:
- 3 3. Có được áp dụng tình tiết khắc phục hậu quả khi người phạm tội lừa đảo khắc phục hậu quả nhưng nạn nhân không nhận:
- 4 4. Phải làm gì khi người phạm tội lừa đảo khắc phục hậu quả nhưng nạn nhân không nhận:
1. Khắc phục hậu quả tội lừa đảo có được giảm án không?
“Khắc phục hậu quả” là khắc phục tác hại của tội phạm gây ra mà không thể sửa chữa hoặc bồi thường bằng tài sản được. Người đã thực hiện tội phạm (tội lừa đảo) phải tự nguyện (không do ép buộc, cưỡng chế) khắc phục hậu quả. Cũng được coi là tự nguyện nếu như do người khác tác động hay theo yêu cầu của người bị thiệt hại mà người thực hiện tội phạm khắc phục hậu quả.
Khoản 1 ĐIều 50 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều này quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, bao gồm các tình tiết sau:
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt các tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường những thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp mà vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp mà vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp mà vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do chính hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trong trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe doạ hoặc bị cưỡng bức;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế về khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu;
– Người phạm tội là phụ nữ đang có thai;
– Người phạm tội là người có độ tuổi đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội là người bị khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội đã tự thú;
– Người phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
– Người phạm tội đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã có lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người mà có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
– Người phạm tội là người mà có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Lưu ý rằng:
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
– Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc là định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Theo đó, người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Như vậy, có thể khẳng định được rằng, khắc phục hậu quả là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo, tuy nhiên khắc phục hậu quả tội lừa đảo có được giảm án hay không sẽ phụ thuộc vào hội đồng xét xử xem xét những yếu tố khác như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,…
2. Khắc phục hậu quả tội lừa đảo bao nhiêu tiền thì được giảm án:
Như đã phân tích ở mục trên, khắc phục hậu quả tội lừa đảo có được giảm án hay không sẽ phụ thuộc vào hội đồng xét xử xem xét những yếu tố khác như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,…Nhưng nói về khía cạnh khắc phục hậu quả tội lừa đảo bao nhiêu tiền thì được giảm án thì hiện tại, pháp luật không quy định rõ về mức khắc phục hậu quả là bao nhiêu (kể cả là đền bù thiệt hại) thì người phạm tội sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy mức khắc phục hậu quả phải tương xứng với thiệt hại gây ra cho bị hại, nếu như vụ án có đồng phạm thì sẽ được phân hóa trách nhiệm hình sự từ đó mà mức khắc phục hậu quả cũng sẽ tương xứng với vai trò ra sao trong vụ án lừa đảo, thì người thực hiện hành vi mới được áp dụng tình tiết giảm nhẹ.
Ngoài ra, căn cứ Nghị quyết
– Người phạm tội phải tự nguyện khắc phục hậu quả mới được coi là tình tiết giảm nhẹ. Điều này có nghĩa là, nếu do tác động của những người khác hoặc của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội buộc phải khắc phục hậu quả thì người phạm tội lừa đảo mới thực hiện theo thì không được xem là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng.
– Về thời điểm khắc phục hậu quả: Việc tự nguyện khắc phục hậu quả sau khi lừa đảo phải xảy ra trước khi tuyên án và thuộc ở cấp nào thì cấp đó coi là tình tiết giảm nhẹ.
3. Có được áp dụng tình tiết khắc phục hậu quả khi người phạm tội lừa đảo khắc phục hậu quả nhưng nạn nhân không nhận:
Căn cứ Điều 1
– Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện thực hiện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
– Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện thực hiện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản;
– Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay là người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, dùng tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do chính hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do chính hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
– Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay là người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được các chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng phía người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ lại từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi mà có yêu cầu;
– Bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị đến cha, mẹ hoặc người khác (như vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này cũng đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
– Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do chính hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi thường thiệt hại thuộc về trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của chính mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc là đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu như bị cáo không có tài sản để bồi thường) và những người này cũng đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Như vậy, khi người phạm tội lừa đảo khắc phục hậu quả nhưng nạn nhân không nhận thì hành vi này vẫn được tính là tình tiết khắc phục hậu quả.
4. Phải làm gì khi người phạm tội lừa đảo khắc phục hậu quả nhưng nạn nhân không nhận:
Như đã nói ở mục trên, bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay là người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, dùng tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội (lừa đảo) của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do chính hành vi phạm tội của bị cáo gây ra (lừa đảo). Như vậy, khi đã thực hiện việc khắc phục hậu quả cho bị hại (người bị lừa đảo) nhưng họ từ chố nhận thì người phạm tội lừa đảo có thể làm đơn và xin nộp số tiền cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan thi hành án.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 201;
– Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.