Trong bài viết này, chúng tôi xin chia sẻ mẫu lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh cùng với các bài văn kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo khi làm bài viết tập làm văn số 2 lớp 9.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý Kể lại một trận chiến ác liệt em đã đọc, đã nghe hoặc đã xem:
- 2 2. Ví dụ dàn ý kể lại một trận chiến ác liệt em đã đọc, đã nghe hoặc đã xem:
- 3 3. Kể lại trận chiến sông Bạch Đằng Đằng năm 1288:
- 4 4. Kể lại cuộc Tổng công kích – tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968):
- 5 5. Kể lại trận chiến Stalingrad:
1. Dàn ý Kể lại một trận chiến ác liệt em đã đọc, đã nghe hoặc đã xem:
* Mở bài:
Lịch sử đất nước với nhiều cuộc đấu tranh hết sức khốc liệt, ngoan cường để bảo vệ đất đai, lãnh thổ, hoặc độc lập, tự do. Những ấn tượng sâu sắc nhất về trận chiến.
* Thân bài:
– Hoàn cảnh tiếp xúc với câu chuyện.
– Tổng quan về trận chiến.
– Diễn biến trận chiến chính (trọng tâm)
+ Các giai đoạn chiến đấu (phòng thủ – cầm cự – tấn công – chiến thắng) được giải thích ở nhiều đoạn.
+ Cần thể hiện rõ mức độ khốc liệt của các trận chiến.
+ Các nhân vật có vai trò quan trọng xuất hiện trong truyện (người chỉ huy tài giỏi, người lính dũng cảm, anh hùng, v.v.).
+ Kết hợp miêu tả và biểu cảm khi kể chuyện (mô tả nét mặt, cử chỉ, hành động, tâm lý… của nhân vật và thể hiện cảm xúc một cách trực tiếp hoặc gián tiếp).
+ Xem miêu tả cảnh thiên nhiên phù hợp với câu chuyện.
+ Suy nghĩ của người kể chuyện (ca ngợi và biết ơn; học tập tốt để noi gương ông cha xây dựng đất nước).
* Kết bài: tự hào về lịch sử đáng tự hào của đất nước mình.
2. Ví dụ dàn ý kể lại một trận chiến ác liệt em đã đọc, đã nghe hoặc đã xem:
* Mở bài:
Giới thiệu trận chiến khốc liệt này: Trận Hà Hồ – Đống Đa của nghĩa quân Tây Sơn dưới thời vua Quang Trung
* Thân bài:
+ Giới thiệu trận Hà Hồi – Đống Đa
+ Là thành trì lớn của địch, có địa hình và bị quân địch giám sát chặt chẽ.
+ Sự chuẩn bị chu đáo của nghĩa quân Tây Sơn: binh lính tinh nhuệ, chỉnh tề…
+ Diễn biến trận chiến
+ Tấn công đồn Hà Hồi vào ngày 29 Tết
+ Tấn công đồn Ngọc Hồi vào mùng 5 Tết
+ Kết quả quân ta thắng trận, vua Quang Trung cùng nghĩa quân tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long.
* Kết bài:
Chúng ta tự hào về những chiến thắng vẻ vang của đất nước và nỗ lực bảo vệ độc lập, tự do của đất nước.
3. Kể lại trận chiến sông Bạch Đằng Đằng năm 1288:
Năm 1288, một trận chiến khốc liệt nổ ra trên sông Bạch Đằng. Đây là trận đánh quan trọng trong cuộc đấu tranh chống quân Nguyên Mông của dân tộc ta Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy chống lại quân Nguyên do Mã Nhi chỉ huy.
Sau thất bại ở Trúc Động ngày 8 tháng 3 (9 tháng 4 năm 1288), Ô Mã Nhi không rút quân bằng đường biển mà đi theo sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo quyết định đánh một trận lớn chống quân xâm lược Mông Cổ đi vào Đại Việt. Sau một đêm trằn trọc, ông nghĩ ra ý tưởng vận dụng lối đánh của Ngô Quyền vào năm 938 tại sông Bạch Đằng.
Trần Hưng Đạo ra lệnh cho quân và dân Đại Việt chuẩn bị trận phục kích lớn trên sông Bạch Đằng, là nơi hạm đội quân Nguyên sẽ phải vượt qua trên đường chạy trốn. Ông cho người chặt các loại gỗ lim, gỗ táu trong rừng kéo ra bờ sông và đẽo nhọn cắm xuống lòng sông ở các cổng lớn dẫn ra biển, do đó tạo nên những bãi chông ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Ông còn cho người mai phục phía sau Ghềnh Cốc, Ðồng Cốc, Phong Cốc, sông Khoai, sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công, còn bộ binh bố trí ở Quảng Yên, dọc theo bờ bên trái sông Bạch Ðằng, kết hợp giữa bãi chông và mai phục ngăn chặn thuyền địch rút lui khi thủy triều xuống. Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của con sông này để xác định vị trí đóng cọc để mai phục quân Mông Nguyên.
Khi Ô Mã Nhi dẫn thuyền vào sông Bạch Đằng lúc nước dâng cao, thủy quân nhà Trần giàn ra giao chiến rồi giả vờ thất bại vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghênh chiến rồi bị Nguyễn Khoái dẫn quan nhử vào vùng đóng cọc. Quân nhà Trần mai phục trên bờ, chờ thủy triều rút rồi tấn công trực tiếp vào quân địch.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông – Vân Trà nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng. Hàng trăm tàu chiến và binh lính dàn ra khắp sông, dựa vào Ghềnh Cốc, tạo thành dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Cùng lúc đó, đoàn thuyền do hai vị vua Trần chỉ huy cũng tấn công từ phía sau, gây tổn thất nặng nề cho quân Nguyên. Nhiều thuyền của quân Nguyên bị cháy rụi. Thấy vậy, nhiều quân lính Nguyên bỏ thuyền chạy vào bờ biển nhưng bị rơi vào phục kích của quân ta. Ô Mã Nhi chỉ huy chống trả trong tuyệt vọng nhưng do không được cứu viện và kết quả là toàn bộ quân địch bị tiêu diệt.
Trận Bạch Đằng năm 1288 là chiến công vang dội, bắt được hơn 400 chiến thuyền, bắt sống tướng Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi, loại bỏ hơn 40.000 tướng sĩ quân Nguyên ra khỏi trận chiến. Tướng Nguyên là Phan Thiết bị bắt sống rồi bị bệnh chết, còn một tướng bại trận khác là Phạm Nhân thì bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết. Lực lượng thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt.
Đây được coi là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt, trận hải chiến hủy diệt và thủy chiến lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của nhân dân Việt Nam, là chiến thắng quân sự tiêu biểu nhất. Ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ của Đại Việt đã kết thúc bằng chiến thắng của Đại Việt trong Chiến tranh Mông Cổ-Đại Việt thứ ba.
Cuộc chiến tranh này là thắng lợi vĩ đại, là dấu mốc vẻ vang trong lịch sử nước ta. Tài năng chiến lược của các tướng lĩnh và tinh thần chiến đấu dũng cảm của nhân dân ta sẽ được kế thừa mãi mãi.
4. Kể lại cuộc Tổng công kích – tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968):
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Những câu thơ mang hào khí và tinh thần quyết chiến của tuổi trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Họ đã đánh đổi cả thanh xuân, tuổi trẻ, thậm chí cả tính mạng của mình, làm những điều tưởng chừng như không thể chỉ để hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong dịp 30/4 vừa qua, tôi đã may mắn được xem bộ phim tài liệu về cuộc Tổng công kích – tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968) của quân và dân ta trong thời kỳ chống Mỹ.
Sau hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, sự tương quan lực lượng trên chiến trường miền Nam đã chuyển dịch theo hướng quân và dân ta. Cùng thời điểm nước Mỹ đang xảy ra xung đột nội bộ sau cuộc bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc tấn công và nổi dậy quy mô lớn khắp miền Nam, chủ yếu tập trung vào các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ, đánh sập chính quyền Ngụy và buộc Mỹ phải đàm phán và rút quân về nước.
Quân đội ta tiến hành tập kích chiến lược vào hầu hết các đô thị trong đêm 30/1/1968 và sáng sớm ngày 31/1/1968 (Đêm Tết Nguyên Đán), mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy. Sau ba đợt từ đêm 30/1 đến 25/2; tháng Năm và tháng Sáu; từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1968, quân và dân miền Nam của ta đã chiếm đóng 37 trong số 44 bang, 4 trong số 6 khu đô thị lớn, 6 trong số 242 huyện lỵ và và ở hầu khắp các ấp chiến lược, các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, quân giải phóng đã tấn công vào cứ điểm đầu não của địch, phá hủy một lượng lớn khối vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Thực tế, khi đêm giao thừa vừa bắt đầu, bản thân địch cũng không lường trước được cuộc tấn công và khởi nghĩa của quân và dân ta. Có lẽ chính bởi sự chủ quận ấy mà quân và dân ta đã nhanh chóng tiến hành cuộc tấn công thần tốc này.
Giữa mưa bom, đạn và khói, những người con anh hùng mảnh đất hình chữ S lao ra tiền tuyến. Tiếng súng vang lên bên tai và Thần Chết theo sát từng bước chân của họ, nhưng các anh, chị vẫn vững vàng và hoàn toàn không hề sợ hãi. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật, cực khổ trăm bề mà gan không núng, chí không mòn, tất cả chỉ chờ đợi thời khắc phản công, tấn công bất ngờ khiến địch trở tay không kịp mà thôi.
Kết quả của mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa là kẻ xâm lược thất bại thảm hại và những con người yêu chuộng hòa bình, yêu nước, hy sinh tất cả trong chiến tranh sẽ giành được thắng lợi vẻ vang. Cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố chiến tranh xâm lược phi Mỹ hóa và chấm dứt vô điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Quan trọng hơn, Mỹ đã phải đồng ý đến bàn đàm phán ở Paris và bàn việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Trận chiến ác liệt, khốc liệt và cam go này cũng là bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam.
Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé biết bao khi chứng kiến những khoảnh khắc lịch sử hào hùng của dân tộc và sự dũng cảm, cao thượng của các thế hệ thanh niên và tổ tiên đi trước. Họ đã hy sinh tất cả những gì họ có chỉ để bảo vệ những gì họ yêu quý. Và cuộc đấu tranh chống Mỹ ác liệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong Tết Mậu Thân 1968 là lời tuyên bố đanh thép của nhân dân Việt Nam trước những kẻ thù đang lăm le xâm lược nước ta.
5. Kể lại trận chiến Stalingrad:
Trận chiến Stalingrad là một trong những trận đánh khốc liệt và quyết liệt nhất trong Thế chiến II, giữa quân Đức Quốc xã và quân Liên Xô tại thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Tây Nam nước Nga. Trận chiến bắt đầu vào ngày 23 tháng 8 năm 1942 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1943, kéo dài hơn 5 tháng. Trận chiến được coi là một bước ngoặt lớn trong chiến tranh, khi quân Đức bị đánh bại và phải rút lui, mất hơn nửa triệu binh sĩ. Trận chiến cũng gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho quân Liên Xô và dân thường Stalingrad.
Trong trận chiến, quân Đức tấn công Stalingrad từ ba hướng: phía Bắc, phía Nam và phía Tây. Mục tiêu của họ là chiếm được thành phố, kiểm soát sông Volga và cắt đứt tuyến tiếp tế của quân Liên Xô. Quân Liên Xô phòng thủ quyết liệt trong thành phố, giao tranh ác liệt với quân Đức từng nhà, từng đường phố và từng tòa nhà. Quân Liên Xô cũng nhận được sự hỗ trợ của không quân và hải quân, cũng như các đơn vị tình nguyện từ các dân tộc khác của Liên Xô.
Vào cuối tháng 11 năm 1942, quân Liên Xô tiến hành một cuộc phản công lớn mang tên Mãnh tướng, bao vây quân Đức trong thành phố. Quân Đức bị cô lập và thiếu thốn vũ khí, lương thực và y tế. Hitler ra lệnh cho quân Đức phải chống cự đến cùng và không được rút lui. Tuy nhiên, vào ngày 31 tháng 1 năm 1943, tướng Friedrich Paulus, chỉ huy của Tập đoàn quân số 6 Đức, đã đầu hàng với quân Liên Xô. Những binh sĩ Đức còn lại trong thành phố cũng đã đầu hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1943.
Trận chiến Stalingrad là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, khiến hàng triệu người thiệt mạng hoặc bị thương. Trận chiến cũng làm tan vỡ niềm tin vào sự bất khả chiến bại của quân Đức và mở ra một cuộc tiến công liên tục của quân Liên Xô cho đến khi giành được chiến thắng chung cuộc trong Thế chiến II. Đây là một trận chiến đầy cảm hứng và đáng kể trong lịch sử nhân loại.