Hợp đồng dân sự cũng được phân chia hết sức phong phú, đa dạng, có nhiều loại hợp đồng khác nhau được phân dựa trên những tiêu chí khác nhau. Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên thì hợp đồng được chia thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Vậy hợp đồng đơn vụ là gì?
Mục lục bài viết
1. Hợp đồng đơn vụ là gì?
Hợp đồng đơn vụ – hợp đồng song vụ là hai loại hợp đồng được phân chia dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào hợp đồng. Trái ngược với hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên khi tham gia vào hợp đồng đều phải có quyền và nghĩa vụ thì hợp đồng đơn vụ được hiểu là hợp đồng mà khi các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng thì các bên chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ với bên còn lại chứ không phải có cả quyền và nghĩa vụ song song. Tức là trong quan hệ hợp đồng đơn vụ, một bên chỉ có quyền với bên kia mà không có nghĩa vụ gì hết và bên còn lại chỉ có nghĩa vụ chứ không có quyền gì. Tính chất của hợp đồng đơn vụ và quyền hoặc nghĩa vụ chỉ xuất phát từ một bên trong khi tham gia ký kết hợp đồng đơn vụ, việc lựa chọn hình thức là hợp đồng đơn vụ do các bên tự thỏa thuận, lựa chọn, phụ thuộc vào ý chí và sự tự nguyện của các bên. Khi đó, các bên sẽ phải cam kết về những quyền và nghĩa vụ của hợp đồng trong hợp đồng đơn vụ và những quyền, nghĩa vụ đó sẽ được xác lập kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Đây chính là căn cứ để xác định về mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng đơn vụ của các bên tại thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực.
2. Quy định của pháp luật về hợp đồng đơn vụ:
– Về thực hiện hợp đồng đơn vụ: Tại Điều 409
– Về hình thức của hợp đồng đơn vụ: cũng như hợp đồng dân sự nói chung thì hình thức của hợp đồng bao gồm: hình thức miệng(bằng lời nói), hình thức viết ( bằng văn bản), hình thức có công chứng, chứng thực, đăng ký.
– Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự: thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự được xác định theo từng thời điểm khác nhau, có thể là hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết nhưng cũng có thể hiệu lực của hợp đồng được xác định dựa vào sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Do đó, có thể thấy được hợp đồng dân sự có thể được xác định thời điểm có hiệu lực thông qua các thời điểm:
+ Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thoả thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.
+ Hợp đồng bằng văn bản thường, có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản hợp đồng.
+ Hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký có hiệu lực tại thời điểm văn bản hợp đồng được công chứng, chứng thực, đăng ký.
+ Ngoài ra, hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau các thời điểm nói trên nếu các bên đã tự thoả thuận để xác định hoặc trong trường hợp mà pháp luật đã quy định cụ thể. Ví dụ: Hợp hời đồng tặng cho động sản có hiệu lực tại thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản (Điều 458
– Về nguyên tắc giao kết hợp đồng đơn vụ: nhìn chung nguyên tắc giao kết hợp đồng đơn vụ cũng tương tự nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự. Theo đó, giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc chung được quy định tại Điều 3, Bộ luật dân sự 2015:
+ Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thoả mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, Bộ luật dân sự 2015 cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc lột.
+ Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lí do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế v.v. để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chỉ là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa , muốn cho quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có tuân theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện.
Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết. Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu (xem thêm Điều 126, Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015).
3. Ví dụ về Hợp đồng đơn vụ:
Ví dụ về hợp đồng đơn vụ: ví dụ điển hình và thể hiện rõ nhất về tính chất của hợp đồng đơn vụ là hợp đồng tặng cho tài sản. Theo đó, khi tham gia vào loại hợp đồng này thì bên tặng có nghĩa vụ là tặng, cho tài sản của mình cho bên còn lại, và bên còn lại có quyền đối với tài sản mà bên tặng, cho đã tặng, cho mình mà không bị ràng buộc một nghĩa vụ nào với bên còn lại của hợp đồng.
Cơ sở pháp lý sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật dân sự 2015.