Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Mục lục bài viết
1. Về hoàn thiện thể chế:
Một là, trong kiểm sát việc xét quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 63 BLHS, Điều 38 LTHAHS thì giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là chế định pháp luật được áp dụng đối với phạm nhân đang chấp hành án tại có sở giam giữ, đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Điều 3 LTHAHS thì phạm nhân là người bị kết án, phải chịu hình phạt theo bản án, quyết định của
Thứ hai, theo quy định tại Khoản 1 Điều 63 BLHS 2015 quy định: “Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt…” nhưng một số VKSND các địa phương còn nhận thức chưa đúng, hiện nay có hai vấn đề còn chưa rõ đó là: hiểu như thế nào là “bồi thường” và “Một phần nghĩa vụ dân sự”. Mặc dù BLHS quy định nội dung này nhưng không có bất cứ một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp người bị kết án đã bồi thường một phần nghĩa vụ dân sự là bao nhiêu. Một phần nghĩa vụ dân sự là đã thực hiện một phần hai, một phần ba hay một phần tư nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, trong quá trình xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân, Hội đồng xét giảm của Tòa án rất khó khăn trong việc xem xét yếu tố “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án không được bảo vệ. Do vậy, trong thời gian tới pháp luật cần có quy định hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
Hai là, trong kiểm sát thi hành quyết định tha tù, việc quản lý, giám sát, giáo dục người tha tù trước thời hạn có điều kiện pháp luật cần có quy định cụ thể hướng dẫn.
Bởi, thực tế trong công tác kiểm sát việc xem xét đề nghị, quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện một số VKS địa phương làm sai quy định của pháp luật, chưa đảm bảo đủ điều kiện rút ngắn thời gian thử thách do quy định chưa rõ, chưa cụ thể, chi tiết như quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP là phải: “Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm và lập thành tích trong lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc… được cơ quan cấp tỉnh trở lên khen thưởng”.
Ba là, cần phải có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách bị phát hiện có hành vi phạm tội trước đó và bị khởi tố, xét xử thì xử lý như thế nào? hoặc hình phạt của bản án mới là hình phạt tiền thì hướng giải quyết như thế nào. Bởi theo quy định của pháp luật hiện hành (tại khoản 4 Điều 66 BLHS) chỉ quy định 02 trường hợp hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đó là: cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên và trường hợp phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước.
Đồng thời, cần có quy định pháp luật điều chỉnh đối với trường hợp quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện bị kháng nghị và cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định hủy và buộc họ đi chấp hành hình phạt tù… thì phải xử lý như thế nào?
2. Về quản lý chỉ đạo điều hành:
Quản lý chỉ đạo điều hành là một trong những hoạt động quản lý chuyên sâu, quyết định tất cả kết quả của một quá trình, hoạt động. Do đó, để thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện thì hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành công tác này phải được đề cao và tăng cường.
Theo đó, các cơ quan VKS trên cả nước phải coi công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện là nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, phải đưa ra những nội dung, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể trong chương trình, kế hoạch công tác hàng năm. Kịp thời và nghiêm túc xem xét trách nhiệm của người đứng đầu và các cá nhân có liên quan trọng trường hợp để xảy ra vi phạm, thiếu sót. Lãnh đạo phải thường xuyên quán triệt tầm quan trọng của công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý của mình, coi đó là công tác quan trọng trong quá trình kiểm sát, coi đó là tiêu chí đánh giá năng lực, trình độ, trách nhiệm trong công tác thi đua hoặc công tác tổ chức cán bộ.
Đồng thời, cần phân công cụ thể theo hướng gắn trách nhiệm với thẩm quyền, chức danh tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ. Phân công rõ trách nhiệm của cán bộ, KSV được phân công nghiên cứu đề xuất với lãnh đạo có thẩm quyền ký phê chuẩn. Nếu để xảy ra sai sót, oan sai, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực mình phụ trách thì phải chịu trách nhiệm và phải chịu hình thức kỷ luật phù hợp.
Mặt khác, lãnh đạo VKS các cấp, VKS cấp trên phải thường xuyên kiểm tra nghiệp vụ công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện. Qua đó sẽ phát hiện vi phạm, thiếu sót để chỉ đạo khắc phục kịp thời, tổng kết rút kinh nghiệm. Với những kinh nghiệm trong giải quyết công việc thì có thể phổ biến đến các đơn vị VKS khác, địa phương khác để họ học tập. Đồng thời, có hình thức khen thưởng để động viên cho đơn vị, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Lãnh đạo VKS cấp trên phải thường xuyên rà soát, kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch công tác của cấp dưới để phân bổ thời gian thực hiện hợp lý. Thường xuyên giữ mối liên hệ với các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát tỉnh, kịp thời báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng cấp trên về những vướng mắc, bất cập trong quá trình công tác. Luôn tạo điều kiện để cán bộ, Kiểm sát viên phát huy năng lực sở trường, tích cực chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Cán bộ, Kiểm sát viên hằng tuần báo cáo tiến độ giải quyết công việc được giao với Lãnh đạo phụ trách; trước khi hồ sơ vụ việc kết thúc, Kiểm sát viên phải tổng hợp báo cáo bằng văn bản, đề xuất hướng giải quyết. Xây dựng và thực hiện nghiêm chế độ tự kiểm tra nghiệp vụ hằng quý, 6 tháng, 1 năm và tự kiểm tra chéo giữa các khâu công tác. Trực tiếp Lãnh đạo Viện kiểm tra và ký ban hành các Yêu cầu xác minh, Yêu cầu điều tra nhằm nâng cao trách nhiệm cũng như chất lượng văn bản; các Phó Viện trưởng trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm vụ được giao tích cực chủ động tăng cường đôn đốc kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, kiểm sát viên thuộc lĩnh vực phụ trách; Viện trưởng trực tiếp kiểm tra công việc của các Phó Viện trưởng và cán bộ công chức, người lao động trong đơn vị…
3. Sơ kết, tổng kết công tác kiểm sát xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện:
Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả, hiệu quả của công tác kiểm sát xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện là giải pháp rất quan trọng. Bởi thông qua đó, các KSV các cấp sẽ được trao đổi, học hỏi, tham khảo kinh nghiệm đối với các đơn vị làm tốt công tác này để khắc phục những vướng mắc, hạn chế, thiếu sót, đồng thời xin ý kiến chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên (nếu có vướng mắc). Ngoài ra, có thể đánh giá tổng hợp rút kinh nghiệm, phát huy ưu điểm, khắc phục kịp thời các hạn chế tồn tại để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát… Góp phần kịp thời phát hiện những thiếu sót để khắc phục, biểu dương những cá nhân thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện.
4. Đào tạo bồi dưỡng:
Một là, cần chú trọng công tác đào tạo tại chỗ, phân công Kiểm sát viên có kinh nghiệm hướng dẫn Chuyên viên, Kiểm tra viên trong công tác nghiệp vụ và gắn với trách nhiệm của người hướng dẫn. Việc phân công bằng Quyết định cụ thể, một cán bộ giúp việc một Kiểm sát viên, để tránh sự chồng chéo trong điều hành công việc, tùy vào tình hình cụ thể sẽ phân công cán bộ làm thêm một số việc khác, nhưng mang tính ổn định cao. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức về công tác kiểm sát xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện cho các KSV tại các địa phương.
Khi tham gia các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện cùng Kiểm sát viên, cán bộ phải làm phiếu đề xuất và viết bài thu hoạch, để lãnh đạo phê duyệt; dự thảo các báo cáo đề xuất, cáo trạng..;
Hai là, tăng cường kiểm tra kiến thức Chuyên viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên thông qua ngày Pháp luật; yêu cầu nâng cao chất lượng các báo cáo nghiệp vụ, báo cáo đề xuất, trực tiếp duyệt, sửa các báo cáo, văn bản do Kiểm tra viên, Chuyên viên soạn thảo, để từ đó cán bộ rút kinh nghiệm, trau dồi kỹ năng cho các KSV để khi được bổ nhiệm chức danh hoặc phân công nhiệm vụ mới, cán bộ có thể bắt tay ngay vào công việc mà không cần phải trải qua thời gian tìm hiểu.
Ba là, ưu tiên cử các cán bộ trẻ theo học các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước; tổ chức các buổi thảo luận nghiệp vụ, trao đổi kỹ năng công tác để cán bộ trẻ nghiên cứu cách giải quyết; yêu cầu cán bộ trẻ phát biểu ý kiến để rèn luyện kỹ năng trình bày thông qua các buổi họp cơ quan…
Đổi mới công tác thi đua, trên cơ sở các phong trào thi đua do Ngành phát động, gắn với việc đẩy mạnh hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch trong từng giai đoạn. Thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”. Xây dựng cơ chế khen thưởng của của cơ quan để động viên kịp thời những đồng chí có thành tích xuất sắc, nổi bật.
5. Bảo đảm cơ sở vật chất:
Cần chủ động đầu tư về trang thiết bị, phương tiện giảng dạy cho học viên, sinh viên trường Kiểm sát; hỗ trợ kinh phí đào tạo để đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ KSV; đảm bảo chế độ đãi ngộ cho cán bộ, giảng viên giảng dạy tại các trường Đại học, trường bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát. Bởi, một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết vụ việc tập trung vào nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin (nâng cấp đường truyền, hệ thống máy chủ tại các Viện kiểm sát; xây dựng hệ thống truyền hình trực tuyến từ VKSNDTC tới tất cả các VKSND cấp tỉnh và cấp huyện để phục vụ công tác hội họp, tập huấn, rút kinh nghiệm; triển khai xây dựng nhiều phần mềm ứng dụng mới, như: phần mềm “Dịch vụ công trực tuyến đăng ký cấp sao tài liệu trong hồ sơ vụ án”, phần mềm giám sát Kiểm sát viên, phần mềm quản lý án, phần mềm thống kê… Thực hiện trình và duyệt các loại văn bản
hành chính (trừ những văn bản thuộc danh mục Mật) thông qua hòm thư điện tử nội bộ của Ngành nhằm đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin và tiết kiệm chi phí văn phòng phẩm hiệu quả. Tăng cường trao đổi nghiệp vụ, những kiến nghị, đề xuất tại các buổi họp giao ban trực tuyến hằng tuần, hàng tháng của VKSND tỉnh và hội nghị trực tuyến toàn ngành.
6. Tăng cường quan hệ phối hợp:
VKSND phải tăng cường chủ động với các cơ quan thi hành tố tụng, hỗ trợ các cơ quan khác trong hoạt động nghiệp vụ nhằm giúp nhau hoàn thành tốt chức năng, vụ vụ của mỗi ngành. Bên cạnh đó, Thủ trưởng các ngành định kỳ cần tổ chức họp liên ngành để rút kinh nghiệm những vụ việc vi phạm, những hạn chế còn tồn tại trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện để đưa ra những giải pháp khắc phục vi phạm, tháo gỡ những khó khăn về quan điểm giải quyết. Bởi đó là mối quan hệ phối hợp có nguyên tắc, đòi hỏi VKSND phải kiên quyết thực hiện đúng các quy định của pháp luật, tránh tình trạng quan hệ nể nang, né tránh khi phát hiện vi phạm của cơ quan khác. Tuy nhiên, khi hợp tác với các cơ quan khác cũng phải có biện pháp mang tính thuyết phục, phù hợp với từng tình huống cụ thể, tránh tình trạng căng thẳng hay áp dụng pháp luật máy móc, ảnh hưởng tới quá trình đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành tố tụng trên cơ sở có sự phân công rõ ràng, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền. Qua đó, tạo điều kiện cho các cơ quan, người tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm độc lập nhưng vẫn có khả năng chế ước lẫn nhau trong hoạt động tố tụng hình sự.