Một số kiến nghị hoàn thiện BLHS Việt Nam về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với loại tội này trong thực tiễn.
Mục lục bài viết
- 1 1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
- 2 2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
- 3 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
- 3.1 3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
- 3.2 3.2. Tăng cường án lệ và sử dụng án lệ đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
- 3.3 3.3. Nâng cao năng lực nhận thức lý luận, kiến thức thực tiễn và phẩm chất đạo đức của người tiến hành tố tụng:
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Nhìn vào thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng có thể thấy rất cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bởi:
– Một là, mặc dù thời gian qua, tại Hà Nội nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung đã đạt được những kết quả nhất định trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, với những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của thế giới và khu vực trong thời gian tới, cũng như tình hình trong nước cho thấy Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong việc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, sai phạm trong khi thực thi công vụ. Theo TS. Nguyễn Xuân Trường, Ban nội chính trung ương thì những thách thức Việt Nam đang phải đối mặt đó là: (1) sự tinh vi, phức tạp của các hành vi tiêu cực; (2) thách thức từ chủ thể của tội phạm; (3) thách thức từ sự suy thoái, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; (4) thách thức trong quá trình hội nhập, đổi mới và tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường; (5) thách thức từ chính sách, tiền lương còn thấp, chưa đảm bảo cho cán bộ, công chức, viên chức đủ sống để “không cần tham nhũng, tiêu cực”; (6) thách thức từ tâm lý, văn hóa truyền thống Á Đông có những điều kiện tạo môi trường thuận lợi cho tham nhũng, tiêu cực phát triển; (7) thách thức đến từ sự yếu kém trong công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực đời sống xã hội. Những thách thức này đòi hỏi cần có những những giải pháp căn cơ, đột phá.
– Hai là, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là loại tội phạm khó, khó trong việc phát hiện, khó trong việc định tội danh, khó trong việc xử lý.
Do đó nếu không có một hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ và vững chắc thì không thể xử lý được loại tội phạm này trong thực tiễn. Đến thời điểm hiện tại, Nhà nước ta đã ban hành tương đối đầy đủ các văn bản QPPL giúp cho các cơ quan THTT có căn cứ pháp lý để xử lý tội phạm. Tuy nhiên vẫn còn những lỗ hổng, vẫn còn những vướng mắc mà chưa được quy định cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật, từ đó dễ dẫn đến tình trạng gây oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
– Ba là, các đối tượng trong các vụ án thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là những người có chức vụ – người luôn có trình độ học thức, chuyên môn nghiệp vụ cao và địa vị xã hội, có mối quan hệ quen biết trong xã hội rộng vì vậy ngay khi biết mình bị khởi tố, điều tra luôn tìm cách né tránh, khai báo quanh co, họ có thể sử dụng quyền lực, quan hệ, hiểu biết, kinh nghiệm, tiền bạc để “ẩn mình”, “bọc lót”, che chắn cho việc vi phạm rất chắc chắn, kỹ lưỡng, lợi dụng các quan hệ xã hội để thay đổi chứng cứ nên việc đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của các đối tượng này hết sức khó khăn, vất vả nếu không có đầy đủ cơ sở pháp lý.
Hơn nữa với áp lực trách nhiệm trong hoạt động tố tụng hình sự lớn nên tâm lý “an toàn” hoặc cầu toàn trong thu thập chứng cứ nên khi chưa chắc chắn trong việc nhận định các yếu tố CTTP thì những người THTT không dám ra quyết định khởi tố, truy tố, xét xử ngay. Điều này có thể tạo điều kiện cho những đối tượng bị nghi phạm tội có cơ hội để che giấu, tiêu hủy chứng cứ.
– Bốn là, nếu quy định pháp luật thiếu chặt chẽ sẽ gây khó khăn cho cơ quan THTT trong những vụ án có đồng phạm. Thông thường những vụ án thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng gồm nhiều đối tượng có những hành vi liên quan, ràng buộc với nhau. Tuy nhiên không phải tất cả các đối tượng đều bị xét xử về cùng một tội mà với mỗi hành vi có thể cấu thành những tội khác nhau. Vì vậy, việc hoàn thiện những quy định của pháp luật sẽ hỗ trợ cho các cơ quan THTT có cơ sở để phân loại tội phạm, nhận định nhóm đối tượng có vi phạm nhưng không phải tội phạm, đánh giá được bản chất của từng hành vi, xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của từng đối tượng trong vụ án; phán đoán, xác định được các đối tượng có liên quan, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm.
– Năm là, việc hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ là một hình thức để thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền với tinh thần thượng tôn pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; mà còn là giải pháp quan trọng trong việc hạn chế tối đa những hành vi sai phạm của người có chức vụ trong khi thực thi nhiệm vụ; giúp xây dựng một môi trường làm việc tích cực, chủ động, tận tình, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công việc; từ đó nâng cao uy tín, danh dự của các cơ quan, tổ chức, củng cố niềm tin của nhân dân.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Trước những thách thức và yêu cầu mà nước ta phải đối mặt trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, thì việc hoàn thiện PLHS về loại tội này là những bước đầu tiên cơ bản quan trọng để nâng cao hiệu quả phòng chống và xử lý tội phạm trong thực tiễn. Trong phạm vi này, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:
– Thứ nhất, đối với dấu hiệu định khung cơ bản là hành vi khách quan của tội phạm tại Điều 360, cần quy định rõ ràng hơn theo hướng: hoặc quy định là “vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao hoặc hành vi khác để dữ liệu và bao quát các dạng hành vi thiếu trách nhiệm khác; hoặc quy định luôn thành “Người nào có chức vụ, quyền hạn mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao …” để cùng thống nhất dấu hiệu “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” chính là hành vi thiếu trách nhiệm, chứ không còn hành vi nào khác.
– Thứ hai, để đảm bảo việc xử lý nghiêm đối với cá nhân có chức vụ vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao một cách có hiệu quả và triệt để, một trong những yêu cầu đặt ra là việc ghi nhận hậu quả của Điều 360 BLHS năm 2015 cần phải bao quát và đầy đủ. Như đã phân tích ở trên, tác giả kiến nghị Điều 360 BLHS năm 2015 cần được sửa đổi, bổ sung thêm hậu quả là thiệt hại phi vật chất để làm cơ sở cho việc xử lý hành vi vi phạm của người có chức vụ, quyền hạn do thiếu trách nhiệm mà gây hậu quả nghiêm trọng, cụ thể như sau:
Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Gây cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan, tổ chức;
h) Để người khác lợi dụng thực hiện tội phạm;
i) Các thiệt hại phi vật chất khác.
– Thứ ba, đối với quy định về hậu quả của hành vi là gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên, tác giả đề xuất cần quy định rõ ràng hơn về mức tỷ lệ tổn hại sức khỏe tối thiểu cho 01 người để đảm bảo tính hợp lý, đồng bộ. Cụ thể, sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 360 như sau: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%. Tương tự như vậy đối với quy định tại điểm b khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 360 cũng cần quy định rõ ràng về mức tỷ lệ tổn hại sức khỏe tối thiểu cho 01 người như vậy.
– Thứ tư, có thể nhận thấy ở thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn TP Hà Nội cũng như của cả nước thấy rằng, hình phạt được áp dụng đối với hành vi phạm tội chủ yếu là hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, một số ít là hình phạt tù có thời hạn, còn lại rất ít khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nhận thấy với những hình phạt này chưa đủ để đảm bảo nghiêm trị những hành vi phạm tội cũng như làm hạn chế khả năng khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra trong thực tiễn. Do đó để nâng cao hiệu quả trong việc xử lý hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tác giả mạnh dạn đề xuất bổ sung thêm hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, vừa để giảm thiểu tối đa việc sử dụng hình phạt tù, vừa góp phần thu được một khoản tiền vào ngân sách nhà nước, hỗ trợ khắc phục phần nào hậu quả đã xảy ra.
Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung quy định về việc buộc công khai xin lỗi đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Bởi chủ thể của tội phạm này là những người có chức vụ nên họ coi trọng danh dự và uy tín cá nhân. Do đó việc áp dụng hình phạt buộc công khai xin lỗi là một cách hiệu quả để răn đe, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và hạn chế tình trạng tiêu cực đang diễn biến phức tạp như hiện nay, giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của những người có chức vụ và làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng hơn vào đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần vào công cuộc đấu tranh tiến tới ngày càng hạn chế tội phạm về chức vụ xảy ra trong đời sống xã hội.
– Thứ năm, tăng cường công tác hướng dẫn của cơ quan chức năng về những quy định của PLHS về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Như đã phân tích ở trên, vẫn còn những vướng mắc trong áp dụng quy định tại Điều 360 BLHS cũng như những quy định pháp luật có liên quan để xử lý hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong thực tiễn mà xuất phát từ việc quy định PLHS chưa rõ ràng nên gây nhiều cách hiểu, cách nhận thức pháp luật khác nhau giữa các chủ thể THTT. Vì vậy việc ban hành những văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật của các cơ quan chức năng mà nhất là nghị quyết của HĐTP
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
BLHS hiện hành có rất nhiều thay đổi trong chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Bên cạnh những thay đổi đó vẫn còn những điểm chưa thống nhất, chưa sáng rõ trong các QPPL hình sự quy định về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng gây khó khăn cho các cơ quan THTT khi áp dụng pháp luật để xử lý loại tội phạm này trong thực tiễn.
Vì vậy, để bảo đảm thi hành đúng quy định của BLHS đòi hỏi các các cơ có thẩm quyền cần tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung những tồn tại, vướng mắc, qua đó hoàn thiện pháp luật hình sự. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền gấp rút ban hành văn bản quy phạm hướng dẫn áp dụng BLHS về các tội phạm chức vụ nói chung và tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng trong mọi lĩnh vực xây dựng, tài chính, kế toán, chứng khoán …, để làm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các cơ quan THTT xử lý tội phạm được đúng người, đúng tội.
3.2. Tăng cường án lệ và sử dụng án lệ đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Cùng với việc tiếp nhận kinh nghiệm lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới trong quá trình hội nhập, sau quá trình chuẩn bị, án lệ chính thức trở thành một loại nguồn luật trong hệ thống pháp luật nước ta kể từ ngày 16/12/2015 – ngày Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của HĐTP TAND tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình áp dụng, HĐTP TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 về trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ thay thế Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP.
Theo pháp luật hiện hành, án lệ được hiểu là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Với ý nghĩa đó, Án lệ là lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; Án lệ phân tích, giải thích các sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, QPPL cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể. Vì vậy Án lệ có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau phải được giải quyết như nhau. Việc áp dụng án lệ không chỉ giúp áp dụng thống nhất pháp luật mà nó còn giúp Toà án kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử, khắc phục được tình trạng nội dung pháp luật quy định chưa rõ ràng, có mâu thuẫn hoặc còn nhiều cách hiểu khác nhau về một vấn đề hoặc có những vấn đề phải giải quyết nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Tuy nhiên, từ khi án lệ chính thức được thừa nhận là nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho đến nay, số lượng án lệ được phát triển chưa nhiều đặc biệt là các án lệ về tội phạm chức vụ nói chung và tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng, nên chưa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh, trong khi đó, các loại nguồn luật khác trong hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật thành văn còn những tồn tại nhất định. Do đó rất cần thiết phải gia tăng số lượng án lệ, hoàn thiện nguồn luật án lệ, phát huy vai trò của án lệ trong việc bổ trợ cho pháp luật thành văn điều chỉnh các quan hệ xã hội.
3.3. Nâng cao năng lực nhận thức lý luận, kiến thức thực tiễn và phẩm chất đạo đức của người tiến hành tố tụng:
Một giải pháp đặc biệt quan trọng đó chính là phải nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức công vụ, kiến thức thực tiễn của những người THTT, đặc biệt trong quá trình xử lý các vụ án liên quan đến tham nhũng, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.Thực tiễn đã chứng minh, chỉ có việc thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, mới có thể làm cho con người có tư duy nhạy bén chính xác trong xử lý công việc, tránh được sự trì trệ làm việc theo lối mòn kinh nghiệm. Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện tượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, bị sửa án, hủy án và đặc biệt là có nhiều vụ án oan sai nghiêm trọng, chính là do thiếu sự học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng, đạo đức công vụ.
Do đó yêu cầu nâng cao năng lực nhận thức lý luận, kiến thức thực tiễn và phẩm chất đạo đức trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nghiên cứu và học tập những kiến thức có liên quan về xây dựng, ngân hàng, tài chính, đất đai,… là cần thiết để đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm chức vụ nói chung và tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng trong tình hình mới. Cụ thể là:
– Một, thường xuyên tổ chức tập huấn các chuyên đề chuyên sâu về chính sách, pháp luật về kế toán, tài chính, xây dựng, đất đai,… cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử có thêm những hiểu biết về kiến thức chuyên ngành giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được đúng đắn và chính xác hơn.
– Hai, bồi dưỡng đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong đó cần quan tâm giáo dục những nội dung như: niềm tin nội tâm về vụ việc đang tiến hành điều tra, phải nhạy bén với sự linh cảm để cảm nhận, cảm giác, tri giác, nhận thức, tình cảm của mình về người đang bị khởi tố điều tra về sự phạm tội hay không phạm tội; nhận thức và điều khiển hành vi ứng xử dựa trên nền tảng pháp luật; tuân thủ nguyên tắc “suy đoán vô tội”, “trọng chứng cứ, không dễ tin lời khai, tôn trọng sự thật khách quan”.
– Ba là, tăng cường đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên môn, công việc và từng ngạch của thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung: kiến thức pháp luật mới, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật quốc tế, … . Bảo đảm nội dung kiến thức truyền đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết và thực hành, giúp thẩm phán nắm vững kiến thức, thành thạo kỹ năng, ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp. Từ đó giúp nâng cao chất lượng xét xử tội phạm giúp xét xử đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.