Hoàn thiện các quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật, giải pháp hoàn thiện các yếu tố khác.
Mục lục bài viết
- 1 1. Yêu cầu về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp:
- 2 2. Yêu cầu về phương diện lý luận:
- 3 3. Yêu cầu về phương diện lập pháp hình sự:
- 4 4. Yêu cầu về phương diện thực tiễn áp dụng:
- 5 5. Những kiến nghị cụ thể hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:
- 6 6. Các giải pháp bảo đảm áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trên thực tế:
1. Yêu cầu về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp:
BLHS đầu tiên được pháp điển hóa vào năm 1985, tiếp đến là BLHS năm 1999 và ngày 27/11/2015, BLHS năm 2015 đã được Quốc hội thông qua để thay thế BLHS năm 1999. Do BLHS năm 2015 có những sai sót về mặt kỹ thuật lập pháp nên đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 và đến ngày 01/01/2018 mới có hiệu lực thi hành. BLHS năm 2015 nhìn chung đã cụ thể hóa các quy định của
Tuy nhiên, với thời gian ngắn để xây dựng sửa đổi, bổ sung, bên cạnh đó công tác tổng kết thực tiễn việc thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, đã đặt ra các yêu cầu quan trọng có liên quan mật thiết đến hoạt động tư pháp như: “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật và Chiến lược cải cách tư pháp…”, trong đó, việc hoàn thiện quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng không nằm ngoài mục đích hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam với định hướng coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Do đó, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung những quy định cũ, xây dựng những quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hết sức cần thiết.
Xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm, Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên liên quan đến lĩnh vực hình sự nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Dự báo tình hình tội phạm trong thời gian tới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, đặc biệt, trong một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng về quy mô và tính chất nguy hiểm và những bất cập của BLHS hiện hành là cơ sở thực tiễn quan trọng của việc sửa đổi toàn diện của BLHS trong đó có chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Việc sửa đổi, bổ sung liên tục sẽ không bảo đảm được tính ổn định của BLHS với tính chất là một văn bản pháp luật mang tính pháp điển hóa cao, cần điều chỉnh sửa đổi vào một thời điểm phù hợp trong tương lai. Đây là những vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi BLHS hiện hành trong đó có chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Ngoài những nội dung nêu trên, với những nội dung của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam tại luận văn, tác giả thấy còn những nội dung cần phải tiếp tục hoàn thiện để chế định này, điều này được phản ánh cụ thể trên các phương diện thực tiễn, lý luận và lập pháp như sau:
2. Yêu cầu về phương diện lý luận:
Tiếp tục hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam về phương diện lý luận có ý nghĩa đối với các cán bộ nghiên cứu khoa học, giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự trong việc nhận thức đúng và thống nhất về các nội dung của chế định và giúp cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhận thức đầy đủ, đúng đắn và chính xác để từ đó đưa ra các quyết định của mình. Chế định hiện nay vẫn còn có một số vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc về mặt lý luận nên vẫn còn có những quan điểm khác nhau. Ngoài ra, cần phải tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý và tiến bộ của luật hình sự các nước nhằm tiếp tục hoàn thiện chế định.
3. Yêu cầu về phương diện lập pháp hình sự:
Lập pháp hình sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự, đáp ứng tính logic và khoa học. Đối với chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hiện nay, xét về phương diện lập pháp thì kỹ thuật lập pháp về mặt thuật ngữ chưa đạt, chưa chặt chẽ, chính xác về mặt khoa học và chưa phù hợp với thực tiễn; nội dung quy phạm chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đã nhiều lần đề nghị sửa đổi, bổ sung nhưng chưa được quan tâm, tiếp thu điều chỉnh.
4. Yêu cầu về phương diện thực tiễn áp dụng:
Về phương diện thực tiễn áp dụng vẫn còn một số trường hợp áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không đúng pháp luật, không có căn cứ pháp luật dẫn đến việc để lọt tội phạm và người phạm tội, do nhận thức không thống nhất, các cơ quan chức năng hướng dẫn chưa toàn diện và cụ thể nên các căn cứ áp dụng còn nhiều bất cập, việc đánh giá không chính xác thời điểm chấm dứt việc phạm tội, xác định thế là tự nguyện chấm dứt còn nhiều ý kiến khác nhau; một số tội xâm phạm an ninh quốc gia đã xuất hiện những năm gần đây đòi hỏi yêu cầu quy định, bổ sung điều chỉnh các quy định đáp ứng tính đặc thù. Bên cạnh đó, với những đòi hỏi và yêu cầu khắc phục những hạn chế, thiếu sót từ việc áp dụng thực tiễn chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, chúng ta cần phải tổng kết thực tiễn, nhất là thực tiễn xét xử để đánh giá hiệu quả của chế định.
5. Những kiến nghị cụ thể hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:
Thuật ngữ “việc phạm tội” trong mệnh đề “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” qua cả 03 lần pháp điển hóa (1985, 1999 và 2015) rõ ràng là chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp, cũng như chưa chặt chẽ về mặt thuật ngữ, chính xác về mặt khoa học và chưa phù hợp với thực tiễn. Vì thuật ngữ “việc phạm tội” mới chỉ đề cập đến hành vi tự nguyện chấm dứt tội phạm của 01 loại người phạm tội là người thực hành” mà chưa đề cập đến hành vi của 03 loại người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Bởi lẽ, thực tế là họ không trực tiếp “phạm tội” (tức “thực hiện tội phạm”) mà hành vi của 03 loại người đồng phạm nếu chính xác là họ chỉ “tham gia vào” việc “phạm tội” (tức tham gia vào việc thực hiện tội phạm”). Kiến nghị cần thay cụm từ “việc phạm tội” bằng cụm từ “tội phạm” để phù hợp với thực tiễn xét xử và bao quát hết hành vi của tất cả các dạng người đồng phạm và thống nhất với Điều 8 BLHS năm 2015. Đồng thời thay tên gọi tại Điều 16 BLHS năm 2015 từ “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thành “tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm”.
Về điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tại Điều 16, sử dụng cụm từ “tuy không có gì ngăn cản” để chỉ sự tự ý của chủ thể không bị chi phối bởi điều kiện khách quan là không chính xác và không đúng với bản chất của chế định này. Theo chúng tôi nên thay bằng cụm từ “mặc dù họ có ý thức được khả năng thực hiện tội phạm đến cùng” vì việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm hoàn toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của người phạm tội, để đưa ra được quyết định này chủ thể phải dựa vào nhận thức và đánh giá của mình về thực tại khách quan có trở ngại hay không? tức là điều kiện khách quan ảnh hưởng đến khả năng thực hiện tội phạm của họ như thế nào? bởi lẽ, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy có thể thực tiễn xuất hiện những yếu tố ngăn cản người phạm tội tiếp tục phạm tội, nhưng họ không nhận thức được điều đó và đã tự nguyện không thực hiện tội phạm nữa.
Trong trường hợp này, rõ ràng là hoàn toàn do sự tự nguyện của chủ thể mặc dù thực tế khách quan có yếu tố gây khó khăn, cản trở. Ngược lại, cũng có trường hợp mặc dù khách quan không có gì ngăn cản nhưng người phạm tội tưởng là có và đã không thực hiện tiếp tội phạm. Hai trường hợp này là sự đánh giá không đúng hiện thực khách quan của chủ thể nhưng rõ ràng nó ảnh hưởng tới ý chí thực hiện tội phạm của chủ thể. Vì vậy, điều quan trọng ở đây phải là sự ý thức của người phạm tội về khả năng thực hiện tội phạm đến cùng.
Để khuyến khích hơn nữa người phạm tội từ bỏ ý định phạm tội và có những hành động tích cực ngăn chặn hậu quả của tội phạm khi nó chưa xảy ra là cần thiết, kiến nghị bổ sung vào Điều 16 BLHS năm 2015 trường hợp người thực hiện tội phạm có cấu thành vật chất nhưng hậu quả chưa xảy ra và người phạm tội đã tích cực ngăn chặn hậu quả thì cũng được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Đối với các quy phạm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong BLHS năm 2015 (Điều 16) vẫn còn thiếu các quy phạm về TNHS đối với hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của 03 loại người đồng phạm khác ngoài người thực hành. Đó là người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Vấn đề này đã được hướng dẫn trong Mục I Nghị quyết số 01 HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán
Xuất phát từ yêu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong
Sửa đổi, bổ sung Điều 16 BLHS năm 2015:
Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm
1. Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm là trường hợp tự nguyện không thực hiện hành vi tội phạm đến cùng, mặc dù họ có ý thức được khả năng thực hiện tội phạm đến cùng hoặc chủ động ngăn chặn có hiệu quả việc thực hiện tội phạm cũng như hậu quả của hành vi phạm tội (trên cơ sở sửa đổi, bổ sung đoạn 1 Điều 16 BLHS năm 2015).
2. Người tự nguyện chấm dứt tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ tất cả các dấu hiệu cấu thành một tội phạm khác, thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này (trên cơ sở sửa đổi, bổ sung đoạn 2 Điều 16 BLHS năm 2015).
3. Người tổ chức và người xúi giục không phải chịu TNHS nếu bằng các biện pháp mà họ áp dụng đã ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đến cùng của người thực hành (mới).
4. Nếu những hành vi của người tổ chức hoặc người xúi giục được quy định tại khoản 3 Điều này đã không ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đến cùng của người thực hành, thì các biện pháp mà họ đã áp dụng có thể được coi là tình tiết để miễn trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ hình phạt (mới).
5. Người giúp sức không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đã tích cực áp dụng tất cả các biện pháp phụ thuộc vào mình để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm (mới).
Ngoài ra, chúng tôi kiến nghị thêm: Tại Điều 14 và Điều 15 phần chung của BLHS năm 2015 hiện nay mới chỉ quy định về Chuẩn bị phạm tội và Phạm tội chưa đạt, cả hai trường hợp này quy định về tội phạm chưa hoàn thành do nguyên nhân ngoài ý muốn của chủ thể, đây là hai trường hợp xảy ra trong quá trình một người thực hiện tội phạm, nó cũng tương tự trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Do đó, không thể lấy hai trường hợp trên để coi là thời điểm của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được.
Vì vậy, cần thiết phải xây dựng chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm thể hiện đúng đây là một quá trình thực hiện tội phạm có tuần tự kế tiếp nhau và nó có thể bao gồm được tất cả các trường hợp có thể xảy ra trong quá trình một người thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó, chúng tôi kiến nghị cần phải xây dựng chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm các quy định về tội phạm chưa hoàn thành (bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) và tội phạm hoàn thành.
Qua thực tế cho thấy, một số trường hợp có tính chất đặc thù cần đưa vào quy định ngay trong điều luật cụ thể tại phần các tội phạm của BLHS có tính chất như tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đó là các tội có CTTP cắt xén, hình thức thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia đã được luật hình sự xác định thời điểm hoàn thành sớm, cho nên việc hành vi phạm tội dừng lại ở thời điểm tội phạm hoàn thành vẫn có ý nghĩa cho xã hội như những trường hợp khác dừng lại ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. Cụ thể, kiến nghị trước mắt đối với 02 tội là tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” được quy định tại Điều 109 BLHS năm 2015 và tội “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân được quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015.
Kinh nghiệm quốc tế cũng đã cho thấy BLHS một số nước đã có quy định tương tự trường hợp này như: tại Điều 422-1 BLHS Cộng hòa Pháp, người có chủ ý thực hiện hành vi khủng bố mà dừng lại không thực hiện, đã
6. Các giải pháp bảo đảm áp dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trên thực tế:
Bên cạnh các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, để bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất đòi hỏi cần có các giải pháp bảo đảm áp dụng như sau:
Đối với việc thống kê số liệu thực tế: Hiện nay công tác thống kê các vụ án hình sự tại Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật: Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là nhiệm vụ quan trọng của hệ thống chính trị trong việc nâng cao nhận thức của người dân về mặt pháp luật, đây là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật nhằm truyền tải thông tin về đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước nói chung và chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nói riêng.
Đây là một chế định nhỏ nằm trong chế định lớn về tội phạm, có tính phức tạp nên cần phải được tuyên truyền, phổ biến cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu đến nhân dân, để người dân hiểu được, công tác này thời gian qua Bộ Tư pháp đã làm rất tốt song cần nhân rộng mô hình tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật hơn nữa. Mặt khác thông qua việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, sẽ truyền tải được giá trị nhân đạo của chế định này trong luật hình sự Việt Nam đến nhân dân, giúp cho nhân dân nhận thức tốt về chế định này sẽ góp phần vào việc hạn chế tội phạm trên thực tế.
Tăng cường hướng dẫn, giải thích áp dụng pháp luật: Các quy định của pháp luật được đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một hướng nhất định, do vậy, việc hiểu đúng, đầy đủ và chính xác các quy định của pháp luật theo nội dung và ý nghĩa của nó sẽ giúp cho việc áp dụng, thực thi pháp luật được chính xác và hiệu quả hơn. Thực tế đã cho thấy, với chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn có nhiều cách hiểu khác nhau, việc áp dụng trên thực tế cũng cho thấy nhận thức của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng cũng còn có sự khác nhau, dẫn đến việc áp dụng khác nhau, do vậy các cơ quan có thẩm quyền trong việc hướng dẫn, giải thích cần phải tăng cường công tác này hơn nữa, cần ban hành văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật.
Tăng cường kiểm tra, kiểm sát việc áp dụng quy định pháp luật: Tăng cường vai trò của viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan đến quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhằm tránh bỏ lọt tội phạm cũng như tránh trường hợp oan sai.
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp giữa Việt Nam với các nước trên thế giới là hết sức cần thiết, về mặt kỹ thuật lập pháp cần nghiên cứu, tham khảo, học tập có chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.