Tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Sang Thu sẽ là cơ sở vững chắc giúp các em có thể đi sâu vào nghiên cứu nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ đó rút ra được bài học cho bản thân
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh sáng tác Sang thu của Hữu Thỉnh ngắn gọn nhất:
Bài thơ Sang Thu được nhà thơ Hữu Thỉnh sáng tác trong khoảng thời gian gần cuối năm 1977 (hai năm sau ngày đất nước được giải phóng) trong một cuộc thi thơ tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu trên báo Văn nghệ, sau in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991).
Bài thơ là sự cảm nhận tinh tế, quan sát tỉ mỉ của tác giả về sự chuyển mình của đất trời từ cuối hè sang thu. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của một tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc
Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, hấp dẫn, cảnh vật được miêu tả tự nhiên, chân thực, ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, gợi nhiều cảm xúc.
2. Tác giả Hữu Thỉnh:
2.1. Cuộc đời:
Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942. Sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học, tuổi thơ của anh không mấy dễ dàng: 6 tuổi ở với chú, 10 tuổi anh phải đi giúp việc nhà. mọi việc cho các đồn Pháp: Văn Tập, chợ Vàng, Thủ, Thanh Văn.
Vì hòa bình lập lại, năm 1954, ông mới được cắp sách đến trường. Năm 1963, ông tốt nghiệp cấp 3 và nhập ngũ, trở thành chiến sĩ Trung đoàn 202. Từ đó Hữu Thỉnh tham gia một số hoạt động như chăn bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy phụ đạo văn hóa, viết báo và làm công tác tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu ở miền Bắc, kinh qua hầu hết các chiến trường đẫm máu như Đường 9
Sau năm 1975, Hữu Thỉnh học Sơ cấp Thú y và là một trong những học viên đầu tiên của trường.
Từ năm 1982, ông lần lượt giữ các chức vụ biên tập viên, trưởng phòng Chăn nuôi, phó tổng biên tập Tạp chí Thú y.
Từ năm 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, làm Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn các khóa 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký Hội Nhà văn.
Hữu Thỉnh đã lần lượt giữ các chức vụ Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (nay là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam), Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (khóa X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
2.2. Thành tựu:
Hữu Thỉnh có những câu hò và trường ca sau:
– Rãnh hồi âm (nói chung);
– Đường vào thành phố (ca khúc dài);
– Từ chiến hào đến thành phố (ca khúc, thơ ngắn);
– Khi Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung);
– Lá thư mùa đông.
– Trường hải.
– Thương lượng với thời gian.
3. Ý nghĩa nhan đề bài thơ Sang thu:
Nhan đề bài thơ Sang Thu thể hiện cách chọn đúng thời điểm, thu hẹp khoảng cách giữa cái xấu và cái đúng. Chính cảm giác mơ hồ, tinh tế ấy đã chuyên chở tâm hồn mùa thu theo cách của mùa thu. Nhạy cảm, dịu dàng, vừa lạ vừa quen, nó đã đánh thức trong ta những gì dịu dàng nhất. “Sang thu” cũng là của kiếp người. Đời người vào thu (đến xế chiều) từng trải hơn, vững vàng hơn trước những biến động của cuộc sống.
4. Phân tích bài thơ Sang thu:
4.1. Bài mẫu 1 – Phân tích bài thơ Sang thu:
Nhắc đến mùa thu, chúng ta nghĩ ngay đến sự chậm rãi, thư thái để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy của mùa thu, nhà thơ Hữu Thỉnh đã sáng tác bài thơ Sang Thu với những hình ảnh giản dị, thân thương nhưng vô cùng đáng yêu. Và khổ thơ thứ hai bộc lộ chân thực nhất hình ảnh đó:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Thiên nhiên, vạn vật đã có những chuyển động, biến đổi vô cùng đặc sắc trong thời khắc sang thu. Dòng sông không còn mang dòng chảy vội vã, gấp gáp mà giờ đây chậm lại để cảm nhận và tận hưởng vẻ đẹp yên bình của mùa thu. Các từ láy “thoải mái”, “vội vàng” đã phần nào thể hiện sinh động nhịp thở của đất trời vào thu. Dòng sông không còn chảy dữ dội như những cơn mưa mùa hạ mà êm đềm như đang lắng đọng, xuôi về để tận hưởng và cảm nhận vẻ đẹp của đất trời vào thu. Nếu dòng sông chảy chậm lại để cảm nhận tiết trời mát mẻ, dịu dàng thì những chú chim lại vội vã tìm thức ăn, chuẩn bị tổ ấm cho mùa đông khắc nghiệt sắp tới. Hai hình ảnh thơ đối lập, đối lập này đã làm cho ý thơ thêm trọn vẹn, sinh động, muôn màu. Mây không còn mang màu xanh ngắt của mùa hè oi bức, mây dường như trở nên dịu dàng hơn, mềm mại hơn uốn thành một đường cong mềm mại để chuyển dần sang thu. Hành động “vắt” được nhân hóa này nhằm diễn tả sự chuyển động của thời gian. Không gian thơ mộng cũng trở nên rộng mở, bao la hơn với hình ảnh sống động của đám mây mềm mại như dải lụa nhẹ vắt ngang bầu trời. Động từ “vắt” vừa thể hiện tính chất nghịch ngợm, hóm hỉnh của đám mây, vừa làm cho đám mây có hồn hơn, hình ảnh được biến hóa trở nên mềm mại, thú vị hơn. Hữu Thỉnh đã điểm vào tranh mùa thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Khung cảnh như trở nên vừa hư vừa thực. Có lẽ ranh giới giữa mùa hè và mùa thu chỉ mỏng manh một chút. Vẻ đẹp của mùa hạ chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu, mà đó là vẻ đẹp của sự chuyển mùa được tạo nên bởi một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm say sưa trong khoảnh khắc giao mùa này. Bốn câu thơ diễn tả sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật từ hạ sang thu. Mỗi cảnh đều có nét riêng nhưng tất cả đã làm cho bức tranh mùa thu thêm thơ mộng.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp phần đưa tên tuổi tác giả Hữu Thỉnh đến gần hơn với mọi người. Những bài thơ với những nét nghệ thuật đặc sắc cũng đã góp phần làm phong phú, đa dạng kho tàng văn học Việt Nam, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc.
4.2. Bài mẫu 2 – Phân tích bài thơ Sang thu:
Để làm nên một tác phẩm thành công, bên cạnh việc chọn đề tài, xây dựng nhân vật, sử dụng các biện pháp nghệ thuật, mỗi nhà văn, nhà thơ cần phải có một phong cách nghệ thuật độc đáo, khác biệt để tạo nên một tác phẩm thành công. Các tác phẩm của ông mang nhiều giá trị và ý nghĩa. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã vô cùng thành công khi viết bài thơ Sang thu, qua bức tranh mùa thu rất đỗi bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam nhưng vô cùng đẹp đẽ, ta cũng hiểu hơn về tình yêu và sự trân trọng. Lòng kính trọng sâu sắc của ông đối với quê hương nói riêng và đất nước nói chung. Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Lời thơ nhẹ nhàng, sâu lắng của ông gợi nhiều cảm xúc bùi ngùi, hoài niệm về đất trời trong trẻo. Ông viết về con người ở thôn quê, về mùa thu, đặc biệt là bài thơ Sang thu, là sự chuyển tiếp nhẹ nhàng giữa mùa hè và mùa thu, gợi lên bằng những hình ảnh quen thuộc.
Điển hình là khổ thơ cuối của bài thơ cho người đọc thấy những suy tư triết lí về mùa thu về kiếp người:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Hình ảnh mùa thu hiện ra đậm đà hơn. Vẫn là cái nắng và tiếng sấm của mùa hạ nhưng mức độ đã thay đổi, đã phai qua hai cụm từ “còn” và “đã phai”. Cái nắng ở đây vẫn còn nhưng không gay gắt như những ngày đầu hè hay những cơn mưa đã tạnh, không còn xối xả mà thay vào đó là chút dịu dàng còn sót lại của mùa hè để chào đón mùa thu. Nếu hai câu thơ đầu là hình ảnh hiện thực thì hai câu thơ cuối còn là hình ảnh ẩn dụ đầy ấn tượng và ý nghĩa. Xét về tính hiện thực, hình ảnh sấm sét là hiện tượng thường xuất hiện trước và sau những trận mưa lớn vào mùa hè, cây đúng tuổi là những cây cổ thụ đã sống nhiều năm thân to xù xì, nhưng trong mắt người nhìn của Hữu Thỉnh không chỉ đơn giản như vậy.
Tiếng sấm trong thơ ông chỉ những thăng trầm của cuộc đời, những vất vả giúp ta trưởng thành hơn trong cuộc sống vững vàng hơn, còn cây cổ thụ chỉ những con người từng trải, vật lộn với biết bao hương vị của cuộc đời. mạng sống. Cuộc sống: mặn, ngọt, đắng, gia vị của cuộc sống và tất nhiên ai đi qua những khó khăn ấy sẽ không còn vấp ngã, run sợ trước giông tố cuộc đời.
Hai câu thơ trên cũng muốn gửi gắm đến người đọc ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường và mạnh mẽ của dân tộc ta quyết tâm bảo vệ quê hương.
Qua bài thơ, người đọc có thể thấy rõ sự tinh tế của nhà thơ về sự chuyển mình của đất trời giữa cuối hạ và đầu thu, đồng thời ông cũng muốn gửi gắm đến mọi người những triết lí sâu sắc về mùa thu về cuộc đời.