Câu cá mùa thu là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Khuyến, qua bài thơ tác giả đã khẳng định được phần nào giá trị tâm hồn của mình. Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để hiểu thấu hơn về tâm hồn của tác giả nhé
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh sáng tác Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
1.1. Mẫu 1 – Hoàn cảnh sáng tác Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn sống ẩn dật. Vì vậy, bài thơ không chỉ tái hiện khung cảnh thiên nhiên của mùa thu mà còn chứa đựng những tâm tư, tình cảm của tác giả.
– Cách trình bày
+ 6 câu đầu: Tả cảnh
+ 2 câu cuối: Tình thu
1.2. Mẫu 2 – Hoàn cảnh sáng tác Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Khuyến ở quê nhà.
– Bố cục: 4 phần.
+ Hai chủ đề: phong cảnh mùa thu.
+ Hai câu thực: Những chuyển động nhẹ nhàng của mùa thu.
+ Hai bài: Bầu trời và không gian làng quê.
+ Hai câu kết: tâm trạng của nhà thơ.
1.3. Mẫu 3 – Hoàn cảnh sáng tác Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
– Hoàn cảnh ra đời bài Câu cá mùa thu: được sáng tác khi tác giả về ở ẩn tại quê hương.
– Bài thuyết trình:
+ Phần 1 (hai câu đầu): giới thiệu câu cá mùa thu.
+ Phần 2 (bốn câu tiếp): cảnh mùa thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ.
+ Phần 3 (còn lại): tâm trạng của tác giả.
2. Tác giả Nguyễn Khuyến:
2.1. Tiểu sử:
– Hoàn cảnh ra đời bài Câu cá mùa thu: được sáng tác khi tác giả về ở ẩn tại quê hương.
– Hiện tại:
+ Phần 1 (hai câu đầu): giới thiệu câu cá mùa thu.
+ Phần 2 (bốn câu tiếp): cảnh mùa thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ.
+ Phần 3 (còn lại): tâm trạng của tác giả.
2.2. Sự nghiệp văn học:
– Hoàn cảnh ra đời bài Câu cá mùa thu: được sáng tác khi tác giả về ở ẩn tại quê hương.
– Hiện tại:
+ Phần 1 (hai câu đầu): giới thiệu câu cá mùa thu.
+ Phần 2 (bốn câu tiếp): cảnh mùa thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ.
+ Phần 3 (còn lại): tâm trạng của tác giả.
– Thực dân Pháp đô hộ Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Dưới con mắt của các nhà Nho, đây chủ yếu là những thay đổi tiêu cực. Đạo đức xã hội thay đổi và khác nhiều so với chuẩn mực đạo đức phong kiến. Cũng như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Khuyến vô cùng đau xót trước thực tế đó. Và ông đã viết nhiều bài thơ bày tỏ cảm xúc của mình về vận mệnh dân tộc.
– Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Ông viết rất thành công về đề tài thơ về nông thôn. Trong đó nổi tiếng nhất là tập thơ Mùa thu. Để thoát khỏi cơn điên loạn của trường, ông lui về quê dạy học và làm thơ. Không khí yên bình ở làng quê đã thôi thúc anh trút bầu tâm sự. Những bức tranh phong cảnh trong thơ ông luôn toát lên vẻ đẹp thanh bình, tao nhã nhưng cô quạnh.
– Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu trào phúng với giọng điệu mỉa mai rất sâu cay. Người thường phê phán những biểu hiện suy đồi về đạo đức xã hội, nhất là trong khoa bảng và quan lại. Đồng thời, với tâm trạng của một nhà Nho bất lực trước thời đại, ông đã viết những bài thơ tự trách mình để vừa tự trách mình vừa giải bày với đời.
Ở cả ba thể loại thơ trên, Nguyễn Khuyến đều để lại những tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
– Nguyễn Khuyến thành công nhất ở thể loại thơ Nôm. Hầu hết các tác phẩm đặc sắc của ông đều được sáng tác trong thời gian ông nghỉ hưu.
– Nét nổi bật trong nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến là ông đã “đưa tiếng nói của cuộc sống giản dị, mộc mạc vào thơ một cách tinh tế, sâu sắc, đôi khi hóm hỉnh, tự nhiên mà nên thơ”. Dù viết theo thể thơ cổ điển nhưng thơ ông luôn rất thư thái, không gò bó. Ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca dân gian và ngôn ngữ giàu chất tượng hình. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Nôm, ngôn ngữ thơ Nôm lên một tầm cao mới, tinh tế và rất hiện đại.
Một số câu nhận định về Nguyễn Khuyến:
“… Trong xã hội cũ, người ta thường lưu hành câu thành ngữ “nhất tự cách trùng” hay “quan dân lễ cách” để chỉ một hiện tượng xã hội kiêu bạc; không ít nhà nho lúc còn hàn vi thì gần gũi bà con xóm giềng, nhưng khi đã đỗ đạt hay đã leo lên chiếc ghế quan trường thì vội vàng thay đổi ngay thái độ; xa rời bà con và lên mặt với xóm làng. Nhưng cụ Tam Nguyên Yên Đổ thì trái lại. Ông hưu quan họ Nguyễn này lúc nào cũng sống chan hòa thân mật với đồng bào xung quanh. Một người láng giềng cưới vợ cho con hay vừa làm xong một cái nhà mới, Tam Nguyên gửi ngay câu đối đến mừng; chị thợ rèn hay chị thợ nhuộm không may góa bụa, cụ có câu đối gửi đến an ủi; bác hàng thịt quen biết vì mến tuổi già mà thường đem biết bát tiết canh, cụ viết câu đối cảm ơn. Khi nhà cụ có chuyện mừng chuyện vui, ví dụ như kì “Lên lão” chẳng hạn, cụ già họ Nguyễn rất ân cần, chu đáo, chia vui với mọi người, không hề có sự phân biệt đối xử. Tam Nguyên Yên Đổ khao lão cũng giống như bất cứ một ông già nào ở thôn quê khao lão.
Hiện nay bà con làng Yên Đổ còn lưu truyền nhiều đức tính tốt đẹp của cụ Nguyễn Khuyến: chan hòa, chân tình, giản dị, thậm chí xuề xòa nữa. Vì quá yêu cụ, người ta còn thần thánh hóa Nguyễn Khuyến: Lúc bé là thần đồng, lúc về hưu là thành hoàng, đứng trên các vị thành hoàng ở địa phương. Tấm lòng quý mến tự hào của quê nhà đối với nhà thơ dân tộc xuất sắc Nguyễn Khuyến là như thế đó.”
3. Dàn ý phân tích Câu cá mùa thu:
3.1. Bức tranh mùa thu:
– Cảnh thu trong bài thơ hiện lên với những chi tiết tiêu biểu về mùa thu của cảnh làng quê Việt Nam
+ Điểm nhìn: từ gần đến cao rồi từ xa đến gần (từ cầu, ao nắng, lũy tre, rồi đến ao thu ⇒ thuyền chài) không gian được mở ra theo nhiều hướng sinh động
+ Nét độc đáo của mùa thu được gợi lên từ sự dịu dàng, thanh khiết của cảnh vật:
+ Không khí mùa thu: trong lành, dịu dàng, nước trong, sóng trong veo, đường nét thoai thoải
+ Vẻ đẹp của bài hát gói gọn trong giai điệu xanh: ao xanh, lũy tre xanh, trời xanh, xanh điểm chút vàng của lá thu.
⇒ Tâm hồn mộc mạc của mùa thu Bắc Bộ được gợi lên từ khung ao hẹp, từ chiếc thuyền câu, từ đám bèo, từ lũy tre uốn lượn.
– Cảnh vắng lặng gợi nỗi buồn:
+ không có người (không có khách)
+ những chuyển động rất nhẹ: sóng nhè nhẹ lăn tăn, mây trôi, lá rung rinh, có cả tiếng cá gọi ⇒ Nghệ thuật chuyển động trái phải làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, hiu quạnh của không gian.
– Cảnh vừa có tình vừa có tình. Ao có thể nhìn thấu đáy (trong), sóng biển phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên màu xanh nổi bật hơn (màu xanh cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao phẳng lặng, lạnh (cái lạnh) thường đi kèm với sự tĩnh lặng, sóng hơi lăn tăn, gió khẽ thổi lá vàng, khách vắng, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như hư không. Sự chuyển động của trường cá linh bỗng làm nổi bật cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh.
– Đây là cảnh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, ở vùng đồng bằng chiêm trũng. Những chi tiết miêu tả trong bài chân thực, gần như giản dị và có sức gợi những tình cảm sâu nặng về quê hương.
– Dưới ngòi bút của tác giả, tất cả những sự vật được đề cập đều ăn khớp với nhau: cái ao thu nhỏ – chiếc thuyền câu nhỏ, gió nhẹ – gợn sóng lăn tăn, trời xanh – nước trong, khách vắng – người thả câu trầm ngâm, đặc biệt là mảng xanh của nước và rặng tre rất đẹp với màu xanh của bầu trời.- Từ ngữ trong thơ không chỉ tạo nên vẻ thuần Nôm cho tác phẩm mà còn có tác dụng làm tăng nhạc tính. Ngôn từ vừa mô phỏng dáng vẻ, vận động của sự vật, làm cho sự vật trở nên sống động, vừa thể hiện sự thay đổi tinh tế trong cảm xúc chủ quan của người sáng tạo: lạnh lẽo, teo tóp, bồng bềnh. Lạnh không phải là cái lạnh của nước mà là cái không khí đượm vẻ quạnh hiu của cảnh vật cũng như tâm trạng u uất của thi nhân. Teo có thể hiểu là rất nhỏ (chiếc thuyền câu nhỏ), âm thanh du dương lặp đi lặp lại gợi nhớ đến một “vật thể” đang ngày càng thu nhỏ kích thước, phù hợp với tầm nhìn của nhà thơ. Vật thể thu vào ngang tầm mắt, không mở quá rộng khiến không khí hình dung bị loãng. Bồng bềnh vừa gợi hình ảnh mây trôi bồng bềnh, vừa gợi trạng thái mơ màng của thi nhân.
3.2. Tâm trạng thi nhân:
– Lòng nhà thơ tuyệt đối tĩnh lặng
– Tình yêu hòa hợp với thiên nhiên
– Không gian bao trùm một tâm hồn cô đơn, u uất trong tâm hồn nhà thơ
-Tâm hồn gắn bó với quê hương, đất nước, lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc
3.3. Nghệ thuật:
– Kết cấu luật, vần đôi rất đúng, lối hành văn tài tình tả cảnh tài tình.
– Ngôn ngữ giản dị, tinh tế, biểu cảm
– Nhịp eo được tác giả vận dụng tinh tế