Bài viết dưới đây là Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Chúc các bạn có thêm nhiều kiến thức và tài liệu để ôn tập thật tốt. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ viết vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi vẻ vang lập lại hòa bình trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Để kỷ niệm và cũng như dành sự tôn trọng, yêu quý nhớ ơn của bác người lãnh tụ đã hy sinh cả đời vì nước vì dân đất nước đã xây dựng và khánh thành Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Lúc này tác giả Viễn Phương cùng đoàn người con xa ra Bắc vào viếng Bác. Nhà thơ đã viết bài thơ này và nằm trong tuyển tập “ “Như mây mùa xuân” năm 1978.
2. Ý nghĩa nhan đề bài thơ Viếng lăng bác:
“Viếng lăng Bác” là một nhan đề rút gọn nhưng rút lại ý nghĩa sâu xa của nó.
“Viếng” – chỉ hành động thăm hỏi, chia buồn khi có người qua đời.
“Lăng Bác” là một địa danh ở Hà Nội.
=> Như vậy, trước hết cho người đọc biết rằng nhà thơ nhân ngày đất nước thống nhất đã ra Bắc thăm Bác. Qua bài thơ, Viễn Phương cũng bày tỏ tình cảm kính trọng, kính yêu nhưng cũng đầy tiếc thương đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
3. Vài nét về tác giả Viễn Phương và tác phẩm Viếng lăng Bác:
3.1. Tiểu sử cuộc đời tác giả Viễn Phương:
Viễn Phương, tên thật là Phan Thanh Viễn (1 tháng 5 năm 1928 – 21 tháng 12 năm 2005), quê quán huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (ngày nay là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang).
Khi còn là một đứa trẻ, anh ấy đã đi học. Cách mạng Tháng Tám nổ ra (1945), ông nhập ngũ và được biên chế vào Tiểu đoàn 23. Năm 1952, Nam Bộ tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật mang tên Chín Giải. Bài thơ “Chiến thắng vì hòa bình” của ông được xếp thứ hai về thơ. Năm 1954, kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông được phân công vào Sài Gòn hoạt động.
Sau biến cố 30-4-1975, ông được bầu ngay làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban Chấp hành Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. . văn học Việt Nam.
Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
3.2. Sự nghiệp văn chương của Viễn Phương:
Trong suốt 30 năm đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc, Viễn Phương đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Ông dành cả cuộc đời để làm thơ. Với tâm hồn nghệ sĩ, tác giả đã nắm bắt được những sắc thái, cảm xúc của cuộc sống và sự lừa đảo. Anh viết để có thể thả hồn vào câu chữ, viết để cống hiến cho quê hương, đất nước.
Truyện ngắn và thơ là hai lĩnh vực tiêu biểu thể hiện trong sáng tác của Viễn Phương, trong đó thơ là lĩnh vực giúp anh gặt hái nhiều thành công. Bên cạnh đó, thể loại nhân vật của anh cũng được đánh giá cao.
Tác phẩm tiêu biểu: Địa đạo quê hương, Lòng mẹ, Sắc tinh tình là, Phù sa quê hương, Mây trắng ngơ ngác, Miền sông nước, Mưa tháng bảy, Đá hoa cương, Thơ với tuổi thơ, Gió lay hương Quỳnh, Ngôi sao xanh, Bóng dáng yêu thương…
Thơ Viễn Phương bùi bùi, thì thầm, thao thức, bâng khuâng, hẹn hò, không hoa mắt, cầu kỳ, khoa trương, ngôn ngữ. Mọi hình ảnh trong đời anh đều thấy thơ.
3.3. Nội dung tác phẩm Viếng lăng Bác – Viễn Phương:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
3.4. Bố cục tác phẩm Viếng lăng Bác – Viễn Phương:
– Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian và cảnh vật bên ngoài lăng
– Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào viếng lăng Bác
– Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn di hài Bác
– Khổ 4: Những tâm tư, tình cảm trước lúc ra đi
3.5. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Giá trị nội dung: Đoạn thơ thể hiện nổi bật niềm biết ơn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến viếng lăng Bác.
Giá trị nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, nhịp thơ trang trọng, thiết tha, với nhiều hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn gợi nhiều cảm xúc.
4. Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác:
Hình ảnh Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Bác là nguồn cảm hứng bất tận đối với những nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng của mình trong các tác phẩm của mình. Có thể nói Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất, trong sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Nhiều tác phẩm viết về Người, về những lần đến thăm và gặp gỡ Người, nhưng có lẽ cảm động nhất là tác phẩm “Viếng Lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là cảm xúc của người con ở phương Nam xa xôi trở về thăm Bác sau ngày Bác ra đi.
Viễn Phương là nhà thơ xuất hiện khá nhiều trên văn đàn cách mạng miền Nam từ những ngày chiến tranh. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chất chứa nỗi niềm trong đó là nỗi buồn, tình cảm chân thành của con người đối với vị cha già dân tộc của một người con từ phương xa trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả chào chúng ta, với yêu cầu vô cùng của Bác Hồ rằng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Không thích các nhà thơ khác dùng những lời chúc hoa mỹ để mô tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng lời giới thiệu chân thành nhất của mình. Tác giả rất thích miền Nam xa xôi, mãi đến hôm nay sau khi nước nhà giành độc lập mới được vào thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai chữ “Nam” như để nhấn mạnh sự xa cách về khoảng cách địa lý giữa hai đầu đất nước.
Và cuộc viếng thăm của nhà thơ cũng giống như một cuộc viếng thăm Lăng Bác được chờ đợi từ lâu. Bác mất năm 1969, nhưng mãi đến năm 1976, Viễn Phương mới về miền Bắc thăm Bác. Nói là thăm nhưng thực ra là viếng lăng Bác vì Bác đã lâu không về.
Nhưng ở đây, rõ ràng nhà xác định không dùng từ “tham quan” như mục đích thực sự của chuyến đi này, mà dùng từ “tham quan”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác về đây thăm quê, thăm lại Cha già. Cũng bởi, miền Nam là một phần máu thịt của Việt Nam, là một phần của “ngôi nhà” mà Bác luôn đau đáu ghé thăm mà chưa có dịp:
“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm đi như một cách làm giảm đi nỗi buồn chua xót tràn ngập trong lòng. Biết bao cảm xúc đau xót có thể dâng lên trong lòng như một cơn bão mạnh, nhưng ấn tượng đầu tiên trở lại trong lòng tác giả là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm se lạnh bao quanh lăng Bác là những hàng tre xanh.
Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc ta và tinh thần bất khuất của ông cha ta. Từ thời Thánh Gióng đã dùng tre đánh đuổi, đuổi theo bụi gai, cây gai cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện ra “nhan nhản”.
Không phải từ nào khác, mà “bâng khuâng” khiến người đọc có cảm giác như nhìn thấy tầm nhìn cao vút, mơ hồ, ngút ngàn của những hàng tre bao quanh lăng Bác. Ấn tượng ấy nhà thơ chuyển thành cảm thán.
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Nhìn hàng tre lãng mạn bên Bác Hồ, nhà thơ mơ ước rằng những hàng tre ấy như ý chí của dân tộc Việt Nam bao năm qua luôn bất khuất, kiên cường và bất khuất. Dù trải qua “mưa bão” nhưng họ vẫn sát cánh bên nhau một lòng. Từ “xanh” được dùng ở đây như một cách diễn đạt, để nói lên rằng dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn “xanh”, mãi mãi là màu xanh.
“Xanh lam” có nghĩa là luôn luôn giống nhau, luôn luôn có cùng một màu xanh lam. Lớp con nối tiếp Lớp cha anh luôn vững vàng để bảo vệ Tổ quốc. Cả khổ thơ đầu, trong đó có Toàn, là cảm nhận đầu tiên của tác giả khi lần đầu tiên vào thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó là nỗi tiếc thương Bác Hồ mất nhưng ẩn chứa trong đó là một niềm tự hào dân tộc.
Bước sang khổ thơ thứ hai, ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào Lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm, nhà thơ đã sáng mắt ra hình ảnh mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ ngày đêm luân chuyển không ngừng. Mặt trời ấy “ngày ngày” xuyên qua lăng Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng nhận ra “một mặt trời trong lăng đỏ lắm”.
Một ẩn dụ vô cùng tinh tế và độc đáo. Bác Hồ – Người là niềm vui, là con thuyền đưa dân tộc Việt Nam vượt qua những ngày đêm đen tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ hằng ngày tỏa ánh sáng ấm áp đến nhân gian, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam đã và mãi là nguồn sáng lớn soi đường cho dân tộc. Trong thơ ca, không ít tác giả dùng hình ảnh ông mặt trời để so sánh với Bác Hồ. Như Tố Hữu cũng đã nói:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.
(Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương, vẫn là hình ảnh ấy, nhưng mang một màu sắc rất riêng. Nếu như nắng bên ngoài đỏ rực hàng ngày thì nắng trong lăng nơi đây cũng đỏ rực một màu riêng. Màu đỏ ấy bừng lên từ bản chất con người Hồ Chí Minh, từ lý tưởng cao cả mà Người mang theo, từ ý chí bất khuất của Người, từ sự kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ những công lao mà Người đã lập được. .
Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang với mặt trời của vũ trụ bên ngoài. Tác giả khéo léo sử dụng ở đây thông báo từ “ngày tháng”. “Ngày tháng” có nghĩa là sự liên tục của thời gian, sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tự nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn sáng tỏ như vầng thái dương. Lần thứ hai, “ngày” được lặp lại khi miêu tả dòng người lặng lẽ vào viếng Người. Dòng người bước đi trong trang nghiêm và lặng lẽ, trong tiếc thương đau thương.
Ở đây, tác giả đã rất khách sáo khi không phải là một đoàn người, một dòng người mà là một dòng người. Điều này khiến người đọc có cảm giác như khoảng lặng, trải dài vô tận của những người đến viếng Bác. Cả đoàn người lặng lẽ “đi trong niềm thương nhớ” về vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ của ông đã trở thành “ tràng hoa”, dòng người của ông đã trở thành tràng hoa bất tận dâng lên Bác.
Và Viễn Phương hòa vào dòng người ấy với tấm lòng kính yêu chân thành dâng Bác, dâng “bọt suối chín” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là tuổi của Bác. Cả cuộc đời bảy mươi mùa chín suối cống hiến hết mình cho dân tộc, không một giây phút ngơi nghỉ cho riêng mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến to lớn mà Bác Hồ vào sinh ra tử đối với đất nước. Và sự ra đời đó đã giúp cả dân tộc được sống trong hòa bình.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Đây có lẽ là khổ thơ đắt giá nhất của bài thơ. Khổ thơ là lời ca ngợi công lao của Bác, cũng là tình cảm thiết tha, lòng biết ơn vô hạn của mọi người dân Việt Nam đối với Bác. Tiếp đó, nhà thơ tiếp tục hành trình viếng lăng Bác. Và giờ đây, anh đã được gặp lại người Cha già mà anh hằng kính yêu và kính trọng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác nằm đó, nhẹ nhàng, thanh thản như đang chìm vào giấc ngủ ngon. Cả đời người chỉ có một niềm đam mê, đó là đất nước được hòa bình. Vì vậy, giờ đây, khi đất nước đã hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu.
Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, để rồi giờ đây Người đã “yên giấc ngàn thu”. Với nhà thơ hay với bất kỳ ai, Bác Hồ cũng như năm nào, tự thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, sớm khuya lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Một lần nữa, Viễn Phương phải dùng đến các biện pháp giảm nhẹ để giảm bớt bầu không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn. Bác nằm đó, giữa giấc ngủ êm đềm chưa từng có, giữa ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa trong không gian.
Ánh sáng ấy có thể là ngọn đèn ngủ êm dịu thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang nói về ánh trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác yêu quý nhất. Có thể thấy, tư liệu của ông luôn tràn ngập hình ảnh vầng trăng. Ví dụ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hay:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Có thể ở đây, hiệu không chỉ đơn giản là nói đến ánh đèn nhấp nháy trong Lăng Bác mà còn nói đến ánh trăng tự nhiên bên ngoài. Bởi trong cuộc đời Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi được bước sang một thế giới khác yên bình hơn, anh muốn được hòa mình với ánh trăng của thiên nhiên, luôn sáng đẹp, trường tồn như lý tưởng của anh. Và tiếp theo, sau bao nhiêu kìm nén, nhà thơ đã phải thốt lên một tiếng nghẹn ngào:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Một lời khiển trách đau đớn biết bao! Lời khiển trách đó là lời quở trách của trời xanh. Bầu trời vẫn thế, năm tháng vẫn xanh một màu bất diệt, nhưng tại sao vị cha già của dân tộc lại phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của hóa học mà lòng vẫn ngậm ngùi đau xót. Dù lý trí luôn chỉ ra rằng quy luật tự nhiên là bất biến nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói đau trong lòng”.
Nỗi đau đến nghẹt thở ấy đã trở thành nỗi trách móc thấu tận trời xanh. Và cảm giác “nghe kẽo kẹt” khiến người đọc như đồng cảm được phần nào nỗi niềm đau đớn, xé lòng mà tác giả cũng muốn bày tỏ. Cảm xúc nó dồn nén đến tất cả các giác quan trong cơ thể con người.
Cuộc gặp nào rồi cũng đến, chuyến vào thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh của Viễn Phương cũng vậy. Đến lúc phải từ biệt, nhà thơ vô cùng xúc động. Cảm xúc ấy cùng với nỗi xót xa, nỗi đau bị kìm nén từ đầu đã biến thành tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai, con phải xa Cha, rời xa Cha kính yêu để trở về phương Nam xa xôi, biết bao giờ con mới có dịp về thăm Cha lần nữa. Chính vì vậy mà nhà thơ đã cất cao tiếng nói của mình. Bao nhiêu buồn đau, xót xa, thương mến cứ thế tuôn trào theo dòng nước mắt. Chính lúc này trong đầu nhà thơ đã xuất hiện một ước nguyện:“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Đó là một niềm khao khát, một nỗi niềm mong mỏi, khát khao của nhà thơ. Mong ước ấy là được ở bên ông – người đứng đầu đại hội toàn quốc, chỉ để được làm “con chim hót”, “bông hoa”, “cây tre trung thành”. Tất cả đều là những điều vô cùng nhỏ bé, tầm thường nhưng lại là tâm nguyện của tác giả.
Vì tiếng chim hót sẽ ru anh vào giấc ngủ ngon, hoa sẽ tỏa hương thơm và một cây trúc nhỏ sẽ luôn trung thành với nơi này. Nhịp điệu ở đây chậm hơn một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như kéo dài thêm giây phút chia ly tiếp theo. Kết thúc bài thơ, hình ảnh cây tre tái hiện như một vòng tuần hoàn.
Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, là biểu tượng của ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Bác để trở thành cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Bác đã ra đi. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định thêm một điều, đó là lòng tin yêu, thủy chung của mỗi người dân Việt Nam vào Bác Hồ, vào lý tưởng, chân lý mà Bác đang hướng tới cho chúng ta.
Cả bài thơ thể hiện được khát vọng cháy bỏng của tác giả, đó cũng là ước nguyện của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn được ở bên Người, được ở bên vị lãnh tụ muôn đời kính yêu của dân tộc, qua đó thể hiện sự tin tưởng to lớn vào Bác và lý tưởng mà Bác đã dày công vun đắp.
Đoạn thơ kết thúc nhưng mang đến cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Chỉ là một chuyến thăm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình cảm sâu nặng của một người con miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ được kết cấu theo thể tám chữ. Con đường thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với dòng chảy chậm rãi khiến người đọc cảm nhận được hết những cung bậc cảm xúc mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà phần lớn là phép tu từ, tác phẩm “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống lại trong lòng người đọc tình cảm yêu mến, kính trọng đối với Bác Hồ và cũng từ đó hòa vào nỗi xót xa. cũng như điều mà tác giả muốn đạt được.
“Hồ Chí Minh – Người ở khắp mọi nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự chứng kiến của Bác Hồ. Dù Bác đã đi xa nhưng sự hiện diện của Bác còn mãi trong lòng mỗi người con đất Việt. Ông là vị cha già đáng kính, là “linh hồn của mọi linh hồn”. Sự ra đi của anh đau thương, tiếc thương nhưng lý tưởng, ý chí, phẩm chất của anh để lại mãi mãi là Tấm gương soi đường cho dân tộc Việt Nam ra đi mang vinh quang trở về. Về . Đó cũng là từ mà Viễn Phương muốn khai phá qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.