Mỗi chính sách được ban hành đều có tác động to lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, việc hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách sẽ tạo ra một chính sách xã hội tốt hơn. Bài viết dưới đây sẽ giúp cho bạn đọc có cái nhìn tổng quan về hoạch định chính sách công và các biện pháp nâng cao hoạch định chính sách.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm Hoạch định chính sách:
Một chu trình chính sách hầu như luôn bắt đầu bằng việc ra hoạch định, tiếp theo là thực thi chính sách và sau giai đoạn thực thi phải đánh giá chính sách để điều chỉnh và hoàn thiện chính sách…
Hoạch định là một bước đặc biệt quan trọng. Việc hoạch định khoa học, phù hợp sẽ tạo ra một chính sách tốt, là điểm khởi đầu để chính sách được áp dụng vào thực tiễn và đạt hiệu quả cao.
Ngược lại, bước xuất phát điểm không đúng sẽ tạo ra những chính sách thiếu thực tế và không khả thi, dẫn đến những hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những thiệt hại này không chỉ mang tính tạm thời, cục bộ mà có ảnh hưởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Nói tóm lại, hoạch định chính sách là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và thực hiện chính sách. Khi chính sách công được công bố, nó sẽ có hiệu lực trong xã hội. Giá trị pháp lý của chính sách được thể hiện ở hình thức, nội dung cũng như thẩm quyền ban hành của cơ quan hành chính nhà nước.
2. Chính sách công là gì?
Ở nước ta, chính sách được xác định bởi Hiến pháp. Cho nên, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước, nhà nước sử dụng chính sách công là một trong những công cụ cơ bản. Nhà nước quyết định chính sách công. Những chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược, chủ trương chính trị của Đảng.
Chính sách công của Việt Nam thường được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, nhưng lại chứa đựng những lựa chọn chính sách không mang tính ràng buộc nhưng mang tính quyết định về định hướng và phát triển.
3. Hiểu như thế nào về hoạch định chính sách công?
Giai đoạn mở đầu cho chu trình chính sách công là hoạch định chính sách công. Ở giai đoạn này, các vấn đề công được xác định và đưa vào chương trình nghị sự quốc gia, được nghiên cứu, phát triển và từ đó ban hành chính sách công. Hoặc có thể nói rằng, hoạch định chính sách công là quy trình một vấn đề công được đưa vào chương trình nghị sự quốc gia để xây dựng và sau đó được ban hành thành một chính sách hoàn chỉnh, mục đích là nhằm giải quyết vấn đề công đó.
4. Quy trình hoạch định chính sách công:
Xây dựng chính sách là giai đoạn thứ hai của quy trình hoạch định chính sách công. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là phát triển nội dung của chính sách, là cơ sở của các lựa chọn sau này. Vì vậy, chất lượng của chính sách công phần lớn phụ thuộc vào khâu thứ hai – nghĩa là muốn nâng cao chất lượng của chính sách công thì trước hết phải nâng cao chất lượng xây dựng chính sách, mà cụ thể phải làm tốt quá trình hoạch định chính sách công sau:
Quy trình hoạch định chính sách công được hợp nhất vào quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ vào quy định tại Chương II và mục 1,2,3 của Chương IV cùng Chương V Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015). Quá trình bao gồm ba giai đoạn: (1) chuẩn bị chương trình xây dựng các văn bản chính sách; (2) chuẩn bị các văn bản dự thảo chính sách; (3) Ban hành và công bố.
4.1. Xây dựng chương trình xây dựng văn bản chính sách:
Xây dựng chương trình xây dựng văn bản chính sách là quá trình trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn bị đề xuất xây dựng văn bản chính sách và đưa đề xuất ấy vào chương trình xây dựng văn bản chính sách sau này.
Lập chương trình xây dựng chính sách bao gồm: soạn thảo các đề xuất xây dựng văn bản chính sách; kiểm tra đề cầu xây dựng văn bản chính sách; xem xét, phê duyệt chương trình xây dựng văn bản chính sách. Nội dung quan trọng nhất quyết định chất lượng chính sách là xây dựng chính sách, bao gồm các nội dung: xác định vấn đề, thiết lập mục tiêu chính sách, giải quyết vấn đề, đánh giá tác động của giải pháp, phân tích chi phí – hiệu quả giải pháp, các phương án chính sách.
Kết quả của bước này là chuẩn bị một đề xuất xây dựng văn bản chính sách và một báo cáo đánh giá tác động chính sách được đề xuất, tại sao phải ban hành văn bản chính sách, chọn lọc và quyết định có đưa đề xuất này vào chương trình xây dựng văn bản chính sách hay không?
4.2. Chuẩn bị các văn bản dự thảo chính sách:
Chuẩn bị dự thảo chính sách là quá trình người soạn thảo sử dụng các phương pháp, kỹ thuật và công cụ, chủ yếu là ngôn ngữ, để thể hiện nội dung chính sách dưới dạng văn bản hợp pháp.
Trong thời gian này, cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm soạn thảo văn bản chính sách tiến hành các bước xây dựng đề cương văn bản chính sách. Quá trình xây dựng dự thảo văn bản chính sách diễn ra đa dạng và tuân theo một quy trình cụ thể bao gồm các bước chính sau: thành lập Ban soạn thảo; Biên soạn văn bản chính sách; tổ chức lấy ý kiến về dự thảo văn bản chính sách; thẩm định dự thảo văn bản chính sách; rà soát, hoàn thiện dự thảo và trình cơ quan thông qua dự thảo văn bản chính sách.
4.3. Ban hành và công bố:
Ban hành văn bản chính sách là quá trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thảo luận về nội dung của dự thảo văn bản chính sách, biểu quyết thông qua và cuối cùng là ký văn bản chính sách.
Quy trình thứ ba này phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản chính sách, bao gồm các bước chính: trình dự thảo văn bản chính sách; thẩm định hoặc chỉnh sửa dự thảo văn bản chính sách; xem xét, thông qua dự thảo văn bản chính sách; ký quyết định ban hành văn bản chính sách; công bố.
Do đó, quy trình xây dựng ở trên cho thấy: Quy trình xây dựng chính sách được tích hợp vào quy trình xây dựng chương trình văn bản chính sách. Quy trình hoạch định chính sách đã tách rời quy trình xây dựng chính sách với quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và do đó giảm thời gian cần thiết để chuẩn bị văn bản quy phạm pháp luật (vì không cần các hoạt động phân tích và xây dựng nội dung chính sách). Vì chính sách đã được thông qua ngay từ đầu chương trình xây dựng văn bản chính sách nên trách nhiệm về chất lượng của chính sách nên được đặt lên vai người đề xuất chính sách. Cùng với đó, cơ quan cung cấp văn bản quy định chi tiết thực hiện chính sách có đủ thời gian để xây dựng văn bản và không làm chậm quá trình thực thi chính sách.
Để phát triển chính sách chất lượng cao, những người tham gia hoạch định chính sách phải thực hiện một loạt các hoạt động hợp lý, có liên quan với nhau được gọi là phân tích chính sách. Các hoạt động này bao gồm: (1) xác định các vấn đề chính sách; (2) thiết lập các mục tiêu; (3) thiết kế giải pháp chính sách; (4) đánh giá tác động chính sách và (5) tham vấn các bên liên quan về chính sách đề xuất. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách phải thực hiện các nhiệm vụ: rà soát việc thi hành luật hoặc đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện có liên quan đến đề xuất xây dựng văn bản chính sách; kiểm tra, đánh giá hiện trạng các quan hệ xã hội gắn với đề xuất xây dựng văn bản chính sách; tiến hành nghiên cứu các chủ đề liên quan để hỗ trợ xây dựng văn bản chính sách; nghiên cứu các thông tin, tài liệu liên quan và các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; xây dựng nội dung chính sách công trong ứng dụng xây dựng văn bản chính sách công; đánh giá tác động của từng chính sách; lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan về những vấn đề chịu sự tác động trực tiếp của quy định, chính sách; đăng tải báo cáo giải trình, tiếp thu văn bản trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức đề nghị xây dựng văn bản…
Từ các nhiệm vụ nêu trên, có thể thấy, chức năng chính của hoạch định chính sách là thu thập, xử lý và phân tích thông tin để định hình nội dung của chính sách và tạo cơ sở (luận cứ, bằng chứng) cho việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn chính sách.
5. Đề xuất nâng cao hoạch định chính sách công Việt Nam:
Đầu tiên, tăng cường sự tham gia của người dân Hiện nay, sự tham gia của những người trong phạm vi ảnh hưởng của hoạch định chính sách còn nhiều hạn chế. Nhiều chính sách công không được hình thành từ suy nghĩ của những người chịu sự tác động của chính sách, các biện pháp thực hiện chính sách do người lãnh đạo xây dựng nên nhiều khi không khả thi, khó thực hiện. Đó là lý do cần tăng cường sự tham gia của người dân và coi đây là yêu cầu bắt buộc, tạo điều kiện để mọi người dân được tiếp nhận thông tin và tham gia hoạch định chính sách.
Tiếp theo, phát triển tăng cường đối thoại chính sách giữa chính phủ và các bên liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp.
Hiện nay, sự phối hợp giữa các tổ chức và cơ quan chính phủ vẫn còn khá rời rạc. Thông thường, sau khi hoàn thành một dự thảo chính sách, các cơ quan chính phủ mới gửi bản dự thảo ấy cho các bên liên quan (bao gồm cả các tổ chức có quyền lợi liên quan). Vì vậy, quan điểm của các nhóm lợi ích thường ở thế bị động. Vì vậy, cần tạo kênh đối thoại, trao đổi thông tin thường xuyên giữa các nhóm lợi ích với nhà nước để ý kiến, mong muốn của các nhóm lợi ích đến được với các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian sớm nhất.
Bên cạnh đó, hình thành các nhóm nghiên cứu và thiết kế các chính sách.
Việc thành lập một nhóm nghiên cứu chịu trách nhiệm trực tiếp trước thủ tướng cần được xem xét riêng, nhóm này sẽ được lựa chọn để tham gia và lồng ghép các ý kiến từ các chuyên gia và quan chức trẻ có trình độ của các bộ, ngành. Nhóm này chịu trách nhiệm hoạch định chính sách của chính phủ và thường xuyên trao đổi thông tin hai chiều với thủ tướng, các bộ và cơ quan thực thi chính sách.