Hình tượng đất nước trong hai bài thơ Việt Bắc và Đất Nước

Đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu hình tượng đất nước qua bài thơ Việt Bắc và Đất nước qua bài viết dưới đây nhé

1. Dàn ý chi tiết hình tượng đất nước trong hai bài thơ Việt Bắc và Đất nước ngắn gọn nhất:

1.1. Mở bài:

"Việt Nam! Ta mến yêu Người". Đó không chỉ là lời một bài hát mà còn là tiếng hát của hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam. Với lòng yêu nước nồng nàn, thiêng liêng và sâu sắc ấy, với những bút pháp và phong cách nghệ thuật khác nhau, các nhà thơ và chiến sĩ đã tạo nên những nét chung, những màu sắc đa dạng và hình ảnh hấp dẫn của đất nước. Qua hai bài thơ “Đất nước” (Một chương trong “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm) và “Việt Bắc” của Tố Hữu, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.

1.2. Thân bài:

Trước hết, nó được khơi nguồn từ ý chí độc lập - tự do của một nước Việt Nam mới, tư thế của những con người tự hào là người làm chủ nước nhà.

Giữa chiến khu kháng chiến, nhìn tinh thần cả nước ra trận, giọng thơ Tố Hữu cất lên đầy phấn khởi, tự hào:

" Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung"

Cảm hứng về đất nước của nhân dân, nhân dân làm nên đất nước cũng là một cảm hứng nổi bật thể hiện trong hai câu thơ này nói riêng, của thơ ca hiện đại nói chung.

Cuộc kháng chiến của cả dân tộc ta ngày nay đã huy động triệt để sức mạnh của quá khứ: “40 thế kỷ cũng ra trận”. Vì vậy, khuynh hướng hoài niệm về quá khứ, niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất cũng là một cảm hứng được thể hiện khá đậm nét trong hai bài thơ này.

Qua trái tim nồng nàn, tự hào của các nhà thơ cách mạng, bức tranh đất nước hiện lên trong ánh nắng vàng rực rỡ của lịch sử với vẻ đẹp hùng vĩ, rộng lớn và tráng lệ in đậm nét dấu ấn của một dân tộc có lịch sử 4000 năm văn hiến.

Cảm hứng lãng mạn, hướng tới chiến thắng và tương lai tươi sáng cũng là cảm hứng nổi bật được thể hiện khá rõ nét trong cả hai bài thơ.

Trong giờ phút chia tay “Lo lắng trong bụng, bồn chồn bước đi”, Tố Hữu lắng nghe bước chân đất nước hướng về một ngày mai tươi sáng với không khí rộn ràng.

1.3. Kết bài:

Những nét chung và riêng như đã phân tích ở trên làm cho đất nước trong thơ ca trở nên phong phú, đa dạng, lung linh và nhiều màu sắc hơn. Và như vậy hai tác giả đã góp hai bông hoa tươi mãi trong vườn thơ dân tộc. Nay được thưởng thức hai loài hoa này, chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ hào hùng của đất nước mà còn thêm yêu đất nước này hơn để góp sức mình làm nên non sông của đất nước. 

2. Hình tượng đất nước trong bài Việt Bắc và Đất nước hay nhất:

Đất nước là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó trở nên đơn điệu và nhàm chán. Mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi hoàn cảnh khác nhau, cũng như mỗi phong cách của tác giả lại có cách thể hiện diện mạo đất nước khác nhau. Góp phần làm phong phú mảng đề tài này là bài Việt Bắc của Tố Hữu và đoạn trích Đất Nước (bản hùng ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.

Mở đầu chương thơ của mình, Nguyễn Khoa Điềm viết: “Khi tôi lớn lên, Tổ quốc còn đó”. Chính xác ! Cả thi nhân và chúng ta đều không biết đất nước có từ bao giờ, nhưng qua văn cổ, ta có thể thấy được diện mạo đất nước từ một cảnh thiên nhiên tươi đẹp:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
(Ca dao)

Hay một chợ quê yên bình
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dẳng giỏi cầm ve lầu tịch dương
(Nguyễn Trãi)

Nhưng khi có giặc ngoại xâm, đất nước không chỉ đau đớn. Nhưng đất nước ấy vẫn hừng hực lòng căm thù: “Kẻ thù đã định trời, hận không đội trời chung”. Để rồi lòng căm thù ấy biến thành những trận đánh vang dội:

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ cho bay
(Nguyễn Trãi)

Để đất nước mãi là niềm tự hào của người con Việt Nam

Từ Triệu Dinh Lý Trần bao đời gây nền Độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên xưng Đế một phương
Tuy mạnh yếu tưng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Nguyễn Trãi)

Hòa trong mạch nguồn chung của văn học dân tộc, Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy đất nước mình tươi đẹp. Trải qua những cuộc chiến tranh lửa đạn, đất nước đau thương nhưng cũng hào hùng, nhân ái.

Nếu Tố Hữu cảm nhận đất nước qua cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Thiên nhiên Việt Bắc như một chỉnh thể thay đổi từng lúc (đông, xuân, hạ, thu, sáng rừng trắng, trưa nắng vàng tươi, đêm trăng bạc). Thiên nhiên là bông hoa đẹp nhất, thơm nhất, họ là những con người Việt Nam giản dị làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, họ thắp sáng thiên nhiên thêm rực rỡ.

Rồi Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận được đất nước là sông núi, là rừng núi bao la:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hon núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi.”

Đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và kỳ thú như núi Bút Non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, sông Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm... vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng còn thấy trong đó lòng trung thành của những con người làm nên diện mạo đất nước.

Và ở đâu trên khắp ruồng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước ông cha
Ôi đất nước đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Nhưng khi giặc ngoại xâm kéo đến, đất nước phải trải qua những tháng ngày đau thương.

Ở Việt Bắc, Tố Hữu không nói nhiều về nỗi đau mất mát. Bởi bài thơ vừa là tình ca, vừa là khúc ca chiến thắng của một giai đoạn lịch sử. Bởi vậy, quê hương cách mạng trong những ngày “trứng nước” ấy hiện lên với muôn vàn khó khăn, gian khổ: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”; “Thương nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa chăn” và qua hình ảnh “người mẹ sạm nắng - Địu con ra đồng bẻ từng bắp ngô”...

Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận được nỗi đau ấy không phải trong một thời kỳ cụ thể mà trong 4000 năm:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Trong lịch sử dựng nước của mình, có thời kỳ dân tộc Việt Nam không phải chống giặc ngoại xâm, có những thế hệ không phải trải qua nỗi đau chiến tranh: con mất cha, vợ mất chồng; Những người vợ, người mẹ một mình vất vả nuôi con khôn lớn chờ người thân trở về.

Trước núi đau mà kẻ thù gây ra cho dân tộc, trước sự tồn vong của vận mệnh đất nước, Tố Hữu cảm thấy trời đất chung sức đánh giặc.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời trời ta cả chiến khu một lòng

Hàng loạt từ ghép kết hợp với phép so sánh phóng đại, hình ảnh thơ vừa thực vừa lãng mạn, Tố Hữu không chỉ gợi lên những gì đẹp đẽ, hào hùng, đau thương của cuộc kháng chiến mà còn dựng nên hình ảnh đất nước trong thời chiến bỗng sáng ngời hào hùng

Nhìn vào lịch sử, qua “bốn nghìn năm đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy sức mạnh của dân tộc ở “bốn nghìn lớp người như ta cùng một lúc”.

Họ sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Hai bài thơ, hai phong cách, hai điểm nhìn khác nhau: Một quê hương cách mạng hào hùng. Một Đất Nước của Nhân Dân trong ca dao thần thoại. Nhưng cả hai bài thơ đều thể hiện một cách sinh động cảm hứng về một đất nước giàu đẹp, một đất nước gian khổ, gian khổ nhưng cũng là một đất nước của những con người anh hùng. Những nét chung và riêng như đã phân tích ở trên làm cho đất nước trong thơ ca trở nên phong phú hơn, muôn màu hơn và vì thế càng hấp dẫn người đọc. Vì nó đã chạm đến phần tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi người.

3. Hình tượng đất nước trong bài Việt Bắc và Đất nước ấn tượng nhất:

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im (Tạ Hữu Yên).

Mỗi lần tôi nghe bài hát này, trái tim tôi tan chảy! Tôi nhớ những ngày thơ ấu được cô giáo dạy viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Tổ Quốc. Tôi mơ hồ không hiểu, chỉ biết rằng đó là một cái gì đó rất lớn lao và quý giá! Thời gian trôi qua thật nhanh cướp đi tuổi thơ của tôi. Cho đến hôm nay, qua nhiều bài thơ đã đọc, tôi đã hiểu được hai từ “Đất Nước” thiêng liêng. Tiếc là tôi không biết làm thơ. Trong số những cảm hứng thơ tình Đất Nước ấy có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

Hai nhà thơ đã truyền cho tôi những cảm xúc mạnh mẽ. Những bài thơ giúp tôi nhìn thấy bức chân dung của đất nước. Đơn giản và yêu sách, tốt bụng và từ bi, nghèo nhưng anh hùng. Có lẽ chính những điều đó đã khơi nguồn cho những vần thơ, gieo vào lòng mỗi nhà thơ bao suy tư, trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn hiểu biết phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã lí giải sâu sắc cho lớp trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Từng câu chuyện cổ tích, những khoảnh khắc lịch sử về những cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước như thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ hết….

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó.

Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm mang âm hưởng sử thi. Các yếu tố cổ điển và hiện đại hòa quyện với nhau để tạo thành một cấu trúc lưỡng cực. Đất nước tôi cũng giống như cuộc sống. Bài thơ dài trôi chảy như dòng sông. Một dòng cảm xúc lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ truyền thuyết: “Ngày xửa ngày xưa mẹ kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây rất nhiều vốn liếng, trí tuệ, kinh nghiệm và gửi gắm vào đây biết bao kỉ niệm đáng suy ngẫm. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng chúng ta hành hương về cội nguồn dân tộc để rồi tham gia chiến đấu là con đường đúng đắn duy nhất của một người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói, để làm nên những vần thơ tuyệt diệu về đất nước, không thể nhà thơ chỉ rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một câu thơ hay một bài cổ. Đây là một quá trình suy tư, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ ấm áp, đầy ý nghĩa của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò đi trước thời đại của mình và nhận ra rằng đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp của chúng ta. Nhà thơ cảm nhận và khám phá đất nước từ một góc độ toàn diện, nhiều mặt và dường như đầy đủ. Đối với Nguyễn Đình Thi, cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu trực quan cụ thể, sinh động của cuộc trường kỳ chín năm kháng chiến cứu nước của dân tộc ta. Bài thơ là sự khái quát cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Phải chăng cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời đại lịch sử, mỗi nhà thơ có những cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, tàn bạo. Người thanh niên Hà Nội ấy cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn vẫn cảm thấy.

Những cảm xúc riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng. Nguyễn Đình Thi từng nói “Tôi yêu em như yêu nước”. Chính những tình cảm đó đã góp phần tạo nên một “đất nước” chan hòa, trìu mến và giàu cảm xúc hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm còn xuất phát từ câu chuyện giữa “anh và em”.

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nguyễn Khoa Điềm tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý đến lịch sử, rất cụ thể. Câu dài xen lẫn câu ngắn hùng hồn làm cho lời ca có vẻ suy tư. Tình yêu đôi lứa bắt nguồn từ tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cảm xúc của nhà thơ qua những phép thử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng nhân dân đã chi phối cảm hứng và bố cục của hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân làm nên đất nước và đất nước mãi mãi là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể vừa huyền ảo. Bởi nguồn cảm hứng ấy đến từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi, thân thương với cuộc sống của chúng ta:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Thông điệp có vẻ riêng tư nhưng thực sự tác giả muốn nói với tất cả chúng ta. Đó không phải là sự dạy dỗ mà là tình cảm, sự ấm áp và trìu mến. Điều nhà thơ thấy, biết, hiểu là cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Lòng yêu nước được thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Đối với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước dường như bao la, rộng lớn nhưng không hề xa lạ với ta mà nó ở ngay trong ta. Mọi thứ trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm giác của buổi học trước. Nhà thơ đã khắc họa một đất nước rất tiêu biểu. Một đất nước Việt Nam với những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao giản dị, chân chất nhưng đầy tình người, sẵn sàng hy sinh thân mình để tạo nên hình hài của đất nước. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hiện thân trong cuộc sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân sống đều mang di sản của đất nước cha ông.

Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc! Nguồn cảm hứng đó không tìm thấy ở hiện tại mà họ còn hướng về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ của chiến tranh và với truyền thống tốt đẹp của dân tộc… Chính các thi nhân đã góp phần tạo nên: “Nam quốc sơn hà” đẹp đẽ! Để chúng ta có thể tự hào: “Đất nước ta… sáng mãi. Khi trăng đã vào cửa hỏi thơ…”

    5 / 5 ( 1 bình chọn )