Quy định về nhà ở xã hội? Hình thức thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội?
Cùng với sự phát triển của đất nước thì chất lượng đồi sống của người dân cũng dần được cải thiện và được nhà nước quan tâm nhiều hơn. Do đó, Nhà nước ta đã có rất nhiều cách chính sách để hộ trợ và giúp đỡ các đối tượng thuộc chế độ chính sách, nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho họ, các chính sách như: cho vay vốn làm ăn, trợ cấp cho hộ nghèo, cận nghèo, tạo công an việc làm, chỗ ở cho những người vô gia cư được hưởng chế độ chính sách theo như quy định của pháp luật hiện hành cho những đối tượng này nhằm giúp đỡ họ có điều kiện thuận lợi hơn trong cuộc sống. Trong các chính sách đã được nêu ra thì Nhà nước có quy định về chính sách có việc cấp nhà ở xã hội cho các đối tượng được quy định trong pháp
Vậy pháp luật nhà ở hiện hành quy định về hình thức thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội có nội dung như thế nào? Trong nội dung bài viết dưới đây, các luật sư của Công ty Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu các quy định liên quan đến quy định hình thức thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
– Luật Nhà ở 2014
Mục lục bài viết
1. Quy định về nhà ở xã hội
Nhà ở xã hội được định nghĩa là loại hình nhà thuộc quyền sở hữu của cơ quan nhà nước có thể trung ương hoặc địa phương hoặc các loại hình nhà được sở hữu và quản lý của nhà nước, các tổ chức phi lợi nhuận được xây dựng nhằm cung cấp nhà ở giá rẻ cho một số đối tượng được ưu tiên trong xã hội như người có thu nhập thấp, công chức nhà nước chưa có ngà ở ổn định… được cho thuê hoặc cho ở với giá rẻ hơn trên thị trường.
Trên cơ sở quy định tại Khoản 3 Điều 7 Luật Nhà ở 2014 quy định về khái niệm nhà ở xã hội là: “Nhà ở xã hội là loại hình nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho những đối tượng được hưởng các chính sách về hỗ trợ nhà ở theo quy định của Luật nhà ở xã hội, quy định theo từng loại nhà cụ thể. Trường hợp Nhà ở xã hội là căn hộ chung cư thì các căn hộ phải đạt tiêu chuẩn diện tích tối thiểu là 25m2/sàn và tối đa là 70m2/sàn. Tuy nhiên tuỳ vào hoàn cảnh của từng địa phương, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh sẽ có thể quy định tăng thêm diện tích cho các căn hộ song không được vượt quá diện tích 77m2 và số lượng các căn tăng thêm diện tích không quá 10% tổng số các căn hộ thuộc diện nhà ở xã hội trong dự án. Riêng với nhà ở xã hội là nhà ở liền kế thấp tầng, diện tích nhà ở không vượt quá 70m2”.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của nhà ở xã hội như sau:
Thứ nhất, Quy mô, số lượng nhà ở xã hội được quyết định bởi nhu cầu thuê và thuê mua nhà ở xã hội của các đối tượng có liên quan cũng như sự phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm hàng đầu về các dự án nhà ở xã hội trên địa bàn.
Thứ hai, Về nguồn vốn phát triển nhà ở xã hội: dựa vào tiền bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thuộc quyền sở hữu của nhà nước trên địa bàn tỉnh, trích từ 30% – 50% tiền sử dụng đất của các dự án phát triển nhà ở thương mại và dự án khu đô thị mới trên địa bàn, ngân sách địa phương, huy động từ các nguồn vốn khác nhau.
Thứ ba, Cùng với đó pháp luật Việt Nam cũng đưa ra những quy định rất cụ thể về một dự án nhà ở xã hội phải tuân thủ các quy định về diện tích và số tầng cụ thể theo như quy định của pháp luật nhà ở hiện hành, theo đó, đối với việc xây dựng nhà ở xã hội tại đô thị phải là chung cư hoặc tính vào loại đặc biệt phải là nhà ở 5 -6 tầng. Bên cạnh đó thì diện tích mỗi căn không quá 70m2 sàn, được hoàn thiện theo cấp, hạng nhà nước nhưng không được dưới 30m2 sàn. Không những phải trú trọng đến diện tích và chiêu cao của nhà ở xã hội mà còn phải trú trọng đến việc đảm bảo các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy định từng loại đô thị trong quá trình xây dựng theo như quy chuẩn xây dựng của nước ta.
2. Hình thức thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội
Trên cơ sở quy định của Luật Nhà ở năm 2014 về nhà ở xã hội được xác định là loại hình nhà dành cho những đối tượng có đủ điều kiện được hỗ trợ, việc hỗ trợ nhà ở xã hội có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau được quy định tại Điều 50 Luật nhà ở năm 2014. Do đó, việc hỗ trợ giải quyết cho thuê, cho thuê mua, bán nhà ở xã hội cho các đối tượng quy định tại các khoản 1, 4, 5, 6, 7, 8 và 10 Điều 49 của Luật nhà ở năm 2014; đối với đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 49 của Luật nhà ở năm 2014 thì chỉ được thuê nhà ở xã hội.
– Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
– Người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị;
– Người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp;
– Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân và quân đội nhân dân;
– Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;
– Các đối tượng đã trả lại nhà ở công vụ không thuộc diện bị thu hồi nhà ở và chưa có nhà ở tại nơi sinh sống;
– Học sinh, sinh viên các học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; học sinh trường dân tộc nội trú công lập được sử dụng nhà ở trong thời gian học tập;
– Hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở theo quy định của pháp luật mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở.
Như vậy, theo như quy định được nêu ra ở trên thì đối với các đối tượng như người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ cận nghèo khu vực nông thôn, gia đình chịu thiệt hại từ thiên tai…thì có thể thuê, hoặc thuê mua hoặc mua nhà ở xã hội để sử dụng trừ trường hợp là học sinh, sinh viên các học viện, trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; học sinh trường dân tộc nội trú công lập được sử dụng nhà ở trong thời gian học tập thì chỉ được áp dụng hình thức thuê nhà ở xã hội.
Các đối tượng trên đây nếu đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 51 của Luật Nhà ở thì được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, cụ thể theo các hình thức thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội. Bện cạnh đó thì pháp luật này còn có quy định về hình thức hỗ trợ theo các chương trình mục tiêu về nhà ở để đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 49 của Luật nhà ở năm 2014 xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở.
– Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
– Hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn;
– Hộ gia đình tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu.
Ngoài ra còn có những quy định về việc hỗ trợ giao đất ở có miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc tặng nhà ở cho đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 49 của Luật nhà ở năm 2014.
– Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
– Hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn;
– Hộ gia đình tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu.
Hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi của Nhà nước thông qua Ngân hàng chính sách xã hội, tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định để các đối tượng quy định tại các khoản 1, 4, 5, 6 và 7 Điều 49 của Luật nhà ở năm 2014 xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở.
– Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
– Người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị;
– Người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp;
– Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân và quân đội nhân dân;
– Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Việc hỗ trợ từ Nhà nước thông qua Ngân hàng chính sách xã hội, tổ chức tín dụng sẽ tạo ra cơ hội cho các đối tượng có công với cách mạng, cho đối tượng có thu nhập thấp, hộ nghèo… tại đô thị hỗ trợ vay vốn ưu đãi của nhà nước để có thể thuê, thuê mua hoặc mua nhà xã hội.
Khi thực hiện xét duyệt đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội thì phải tổ chức xét duyệt theo nguyên tắc, tiêu chí được quy định tại Điều 23